TRAN XUAN AN - NGUYEN VAN TUONG, "NHUNG NGUOI TRUNG NGHIA ..." 1

Friday, April 28, 2006

NGUYỄN VĂN TƯỜNG, “NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA TỪ XƯA, TƯỞNG KHÔNG HƠN ĐƯỢC”

TRẦN XUÂN AN

NGUYỄN VĂN TƯỜNG,
“NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA
TỪ XƯA,
TƯỞNG KHÔNG HƠN ĐƯỢC”


KHẢO LUẬN VỀ MỘT VÀI KHÍA CẠNH SỬ HỌC



Nhà Xuất bản


2003





Đã đăng trọn vẹn cuốn sách này
trên Tạp chí điện tử Giao Điểm, 05-2005:
Search:
http://www.giaodiem.com
link trực tiếp:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm





Kính dâng lên bàn thờ cao tổ phụ:
NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)

Trần Xuân An,
nội hậu duệ thế hệ thứ năm.



“… Nay ta cùng đại thần Tôn Thất Thuyết quanh quẩn,
còn ngươi là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm.
Kẻ ở, người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản;
đất trời cũng thật chứng giám …”.


HÀM NGHI (và TÔN THẤT THUYẾT),
mật dụ từ Tân Sở gửi NGUYỄN VĂN TƯỜNG,
ngày 02.06. Ất dậu, 1885.



“… Huân thần tâm sự như thế, cáng đáng như thế,
thật là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người
trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được …”.


HÀM NGHI (và TÔN THẤT THUYẾT),
mật dụ từ Tân Sở gửi hoàng tộc,
ngày 07.06. Ất dậu, 1885.





LỜI THƯA ĐẦU SÁCH

Cuốn sách này chỉ là tập hợp và phát triển những ý tưởng chúng tôi đã trình bày trong một vài cuốn sách đã viết về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường. Có điều, vấn đề lại một lần nữa được đặt ra ở đây là nhằm ý định kiến nghị, đề xuất yêu cầu giải quyết thật rốt ráo, dứt khoát trong tinh thần khoa học đích thực về một vài khía cạnh tồn đọng trên trang báo này, chương sách nọ như di chứng của “định kiến sai lầm” rất đáng phiền trách.
Việc xuất bản bản dịch Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu (thực ra là của Lương Khải Siêu) vào năm 1982 và lại tái bản vào thời điểm 2001, cách đây một năm, trong tình trạng không phê phán triệt để một cách khoa học vài trang đảo ngược sự thật lịch sử về Nguyễn Văn Tường ở tác phẩm ấy, là cả một thách đố công luận, biểu lộ một thái độ phi học thuật đáng kinh ngạc. Đấy là chưa kể đến những soạn phẩm, bài báo khác, được mệnh danh là nghiên cứu sử học nhưng thực chất là phi sử học!
Do đó, chúng tôi xem những khía cạnh của vấn đề trong cuốn sách này là hết sức cần thiết phải đặt ra, và phải đặt ra một cách trực tiếp, chỉ rõ đích danh. Đồng thời, từ đó, cũng xin mạn phép vượt lên luận đề cụ thể đã nêu để ít nhiều đề cập đến một vài khía cạnh có tính chất lí luận sử học:
1. Xác định tư liệu (phân loại, thẩm định tư liệu bằng khoa học – kĩ thuật thực nghiệm; khảo chứng tư liệu; khai thác, sử dụng tư liệu có độ xác tín cao…).
2. Tiêu chí phản ánh và nhận định sử học (quan điểm, lập trường; đạo lí dân tộc, công lí nhân loại).
3. Đối chiếu sử học (sử học các nước, các tổ chức có liên quan trong giai đoạn: Pháp, Tây Ban Nha, Vatican [Rome], Hội Truyền giáo hải ngoại Paris, Tunysie, Maroc, Angérie, Trung Hoa, Thái Lan, Lào, Anh, Đức, Nga…, được xuất bản từ đó đến nay); đối chiếu tư liệu gốc đã được giám định thực nghiệm.
4. Các thể loại sử học và giá trị thuyết phục về tính khoa học của mỗi thể loại.
5. Đối thoại và phản biện sử học.
6. Sự lợi dụng sử học vào mục đích tuyên truyền chính trị nhất thời, và đạo đức, lương tâm nhà chép sử, nghiên cứu sử, sáng tác hư cấu về đề tài lịch sử…
Thật ra, những khía cạnh ấy, chúng tôi chạm phải trong quá trình nghiên cứu về Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và giai đoạn đầu (1858 – 1885) của cuộc kháng chiến 131 năm (1858 – 1989). Đó là cuộc chiến tranh lâu dài, bền bỉ, tuy mỗi giai đoạn có sự khác nhau về sắc thái, nhưng bản chất là nhất quán: chống chủ nghĩa thực dân Phương Tây, trực tiếp là thực dân Pháp, Tây Ban Nha, Hội Truyền giáo hải ngoại Paris, chống chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, chủ nghĩa phát xít Nhật, và chống chủ nghĩa thực dân mới, trực diện là đế quốc Mỹ.
Vấn đề Phan Bội Châu với tác phẩm Việt Nam vong quốc sử (được viết và đăng báo, xuất bản thành sách bởi Lương Khải Siêu, một người bảo hoàng, Đại Hán chủ nghĩa hạng nặng) cũng phải đặt trong bối cảnh xung đột chính kiến; biểu hiện cụ thể ở trường hợp này là sự xuyên tạc, bôi nhọ, đảo ngược bản chất nhân vật lịch sử vì mục đích tuyên truyền cho chủ nghĩa bảo hoàng, Đại Hán, cho một bộ phận giáo dân Thiên Chúa giáo, và vô hình trung, cho thực dân Pháp, cho những kẻ bán nước cầu yên hoặc cầu “vinh” như Dục Đức, Hiệp Hoà, Hồng Hưu, Đồng Khánh, Nguyễn Hữu Độ…, ở giai đoạn lịch sử ấy. Trong Việt Nam vong quốc sử, việc tác giả không chỉ gián tiếp bênh vực Dục Đức, thậm chí, lại không một lời phê phán Hiệp Hoà, Hồng Hưu, Đồng Khánh, Nguyễn Hữu Độ, Trương Vĩnh Ký, Đinh Văn Điền… là cả một sự đảo ngược sự thật lịch sử hết sức trắng trợn!
Ngoài ra, chúng tôi còn mạn phép đối thoại với GS. Trần Văn Giàu, và bình chú “tuỳ bút – khảo luận về lịch sử” của GS. Bửu Kế ở một vài điểm không thể không đối thoại và bình chú được, trong tinh thần dân chủ, chống thái độ học phiệt, thói tật “định kiến sai lầm” trong học thuật (điều mà hai GS., một người còn sống và đang tiếp tục nghiên cứu, một người đã quá cố, hẳn rất vui lòng). Tinh thần đả phá những sai lầm nguy hại trong sử học, cụ thể là gián tiếp đả phá Phan Bội Châu (thực ra là Lương Khải Siêu) với một vài trang Việt Nam vong quốc sử vốn đảo ngược sự thật lịch sử về Nguyễn Văn Tường, tinh thần đả phá đó của hai GS. là điều bản thân chúng tôi đã và đang học tập, đối thoại, bình chú, bởi khoa học là một cuộc chạy đua tiếp sức. Nói cách khác, trên con đường tiếp cận sự thật lịch sử, vốn có lắm gai góc, mây mù, chướng ngại cản chân, che mắt, mỗi người, mỗi thế hệ có trách nhiệm nối bước nhau phát quang, dọn dẹp. Xin được bày tỏ sự tin tưởng: Nhà nghiên cứu khoa học đích thực chính là nhà dân chủ, dân chủ thật sự và cụ thể.
Trong cuốn sách này, chúng tôi còn trích dẫn khá nhiều các trích đoạn từ tư liệu chuẩn cứ là Đại Nam thực lục chính biên IV,V,VI (1847 – 1888) và xem đó là phần phụ lục quan trọng, căn bản, làm nền tảng cho các ý tưởng nhận định của chúng tôi.
Tất nhiên chúng tôi vẫn cho rằng sự đối chiếu sử học, nhất là đối chiếu tư liệu gốc (đúng nghĩa của thuật ngữ này) là phương pháp tốt nhất để rút ra kết luận. Đối chiếu sử học Pháp, gồm cả sử học Hội Truyền giáo hải ngoại Paris, với sử học Trung Hoa, và dĩ nhiên, với sử học Việt Nam, viết về giai đoạn 1858 – 1885, nhất là đối chiếu tư liệu gốc của 3 nước và của Thiên Chúa giáo trong giai đoạn ấy, là phương thức nghiên cứu, nhận định có hiệu quả chính xác nhất. Và để có kết luận cuối cùng thật sự khoa học, nghiêm túc, vẫn rất cần tổ chức các hội nghị khoa học lịch sử với những tham luận (có thể chỉ gửi đến) của các nhà nghiên cứu sử, Việt, Pháp, Tây Ban Nha,Vatican, Trung Hoa, Nhật Bản …, của các sử gia các nước khác trên thế giới chuyên nghiên cứu về mảng đề tài này. Trong thời đoạn bùng nổ thông tin và thuận lợi về phương tiện đi lại hiện nay, đó không phải là một yêu cầu học thuật không tưởng. Tuy vậy, như thế vẫn hơi xa vời! Thiết thực nhất là thảo luận trên diễn đàn báo chí, ở hội nghị khoa học tuy gọn nhẹ, vẫn có chất lượng, như đã tổ chức thực hiện trước đây. Tiếc rằng, hội nghị về đề tài “Nhóm chủ chiến Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường” chưa đi đến kết luận dứt khoát ở điểm này, điểm nọ, nhất là còn tránh né một vài trang đảo ngược sự thật lịch sử trong Việt Nam vong quốc sử. Tất cả các tham luận chỉ gián tiếp đả phá Phan Bội Châu (thực ra là Lương Khải Siêu) ở khía cạnh đảo ngược sự thật lịch sử về Nguyễn Văn Tường. Do vậy, nên vấn đề vẫn ngang nhiên “tồn đọng”!
Dẫu sao, vẫn không thể cứ để những vấn nạn cứ “tồn đọng” trong không khí trì trệ mãi như thế được. Xin hỏi: Vấn nạn lịch sử ấy, xét tự sâu xa, là bởi ai, nước nào, tôn giáo nào? Trách nhiệm học thuật này thuộc về ai? Nhà yêu nước Phan Bội Châu có trách nhiệm gì không? Nhà yêu nước đâu phải là không sai lầm! Vì mục đích tuyên truyền nên bất kể thủ đoạn!?! Chẳng lẽ đổ hết trách nhiệm cho Lương Khải Siêu?
Hoặc giả, chỉ nên xem một vài trang đảo ngược sự thật lịch sử trong Việt Nam vong quốc sử như một thứ phản biện sử học khá vu vơ và quá hồ đồ chăng? Phản biện cũng phải có cứ liệu, đó là yêu cầu khoa học tối thiểu!


Chúng tôi cũng tự biết: Nhận định một nhân vật lịch sử trong một giai đoạn lịch sử nhất định, sẽ phiến diện biết bao, nếu không khảo sát toàn bộ hành trạng của nhân vật ấy và các mối liên quan với các nhân vật khác trong bối cảnh chung và cụ thể.
Lẽ ra, ít nhất cũng phải khảo luận về các khía cạnh nổi bật khác của Nguyễn Văn Tường, chứ không chỉ tập trung chú ý vào giai đoạn 1883 – 1885 (và cả những tháng ngày từ lúc bị lưu đày cho đến trước 04 giờ 30, sáng sớm 30.7.1886, phút ông trút hơi thở cuối cùng tại hòn đảo tù đày Tahiti). Nói cụ thể hơn, lẽ ra phải lưu ý thêm các khía cạnh:
1. Nguyễn Văn Tường và tình cảm gắn bó với các nhân tộc ít người ở miền núi Quảng Trị…
2. Nguyễn Văn Tường với chủ trương đoàn kết lương – giáo trên nền tảng đạo lí Việt Nam (gồm cả “sách lược thoả hiệp tạm thời” trong vụ xung đột lương – giáo [khởi nghĩa Văn thân] tại Nghệ – Tĩnh, 1874, đúng như tinh thần trong sách lược của Lê-nin [V.I. Lénine] về sau, ở Nga, khi chính quyền xô-viết của Lê-nin kí hiệp ước Brest – Litovsk ngày 13.5.1918 với chính phủ phát xít Đức: “Thoả hiệp với kẻ thù [phát xít Đức, 1918] mà có lợi cho cách mạng, chúng ta vẫn sẵn sàng thoả hiệp”) *.
3. Nguyễn Văn Tường với vấn đề bình đẳng trong việc khai hoang, cấp phát, canh tác và nghĩa vụ đóng thuế ruộng đất.
4. Nguyễn Văn Tường trong 5 năm tiễu phỉ ở phía Bắc.
5. Nguyễn Văn Tường với quan điểm chính trị đức trị, nhân trị đi đôi với việc tăng cường quân đội.
6. Nguyễn Văn Tường với lĩnh vực ngoại giao trước âm mưu tiến hành xâm lược của Pháp, lực lượng tả đạo trong Thiên Chúa giáo, và sự bành trướng Đại Hán, ở nửa cuối thế kỉ XIX.
7. Nguyễn Văn Tường với ý thức canh tân Đất nước.
8. Nguyễn Văn Tường với vấn đề tài chính.
9. Nguyễn Văn Tường với văn chính luận và thơ ca.
Và nhiều khía cạnh khác nữa…
Đồng thời, hành trạng Nguyễn Văn Tường hẳn phải được nghiên cứu trong các mâu thuẫn chủ yếu của bối cảnh Việt Nam, châu Á và thế giới nửa sau thế kỉ XIX. Ở Việt Nam thuở bấy giờ, phải chăng là sự xung đột của các mâu thuẫn:
1. Chủ nghĩa yêu nước, ý thức không có gì quý hơn độc lập, tự do, quyết tâm bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc mâu thuẫn với chủ nghĩa thực dân Phương Tây, chủ yếu là thực dân Pháp, mà 2 bộ phận cấu thành của chủ nghĩa thực dân Pháp là đội quân xâm lược và công cụ nô dịch Thiên Chúa giáo. Từ mâu thuẫn này, đã nẩy sinh một mâu thuẫn lớn, rất gay gắt: mâu thuẫn lương – giáo. Chính Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược (1921), đã viết: “Dần dần người trong nước phân ra bên lương, bên giáo, ghen ghét nhau hơn người cừu địch” **. Mâu thuẫn giữa Pháp xâm lược – Việt chống ngoại xâm bị tôn giáo “đầu độc” nên chuyển thành mâu thuẫn Việt bên giáo – Việt bên lương! Người Việt bên giáo thù hằn người Việt bên lương hơn thù giặc Pháp, thậm chí tôn vinh giặc Pháp là sứ giả của Thiên Chúa, và ngược lại, người Việt bên lương chủ trương vừa bình Tây vừa sát tả! ***
2. Mâu thuẫn lâu đời giữa chủ nghĩa bành trướng Đại Hán với ý thức “nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc – Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo). Đây là mâu thuẫn trong liên minh tiễu trừ giặc Cờ rất tế nhị và phức tạp (Mãn Thanh đã Hán hoá – Hán chống Mãn Thanh; Thái Bình thiên quốc đã biến tướng thành phỉ đích thực, thực sự xâm chiếm biên giới nước ta, cướp bóc, tàn sát nhân dân ta, thậm chí chúng còn câu kết với giặc Pháp, mặc dù Triều đình Huế đã bao lần phủ dụ); và mâu thuẫn trong liên minh chống Pháp (Thanh cứu viện cho Việt; mưu toan Hoa – Pháp câu kết xâu xé Bắc kì)…
3. Mâu thuẫn Đàng Ngoài – Đàng Trong do hậu quả của khoảng 200 năm Trịnh – Nguyễn phân tranh, biểu hiện ở thực trạng máu xương: ngọn cờ đã bị lịch sử vượt qua là “hoài Lê” xung đột với ngọn cờ “phù Nguyễn”.
4. Mâu thuẫn giữa khuynh hướng canh tân và thủ cựu.
5. Mâu thuẫn giữa các khuynh hướng chủ hoà, đầu hàng và chủ chiến.
Các mâu thuẫn này đan bện vào nhau, giằng xé lẫn nhau, khi đấu dịu, khi dữ dội, và chằng chịt, rối rắm nhưng cũng khá rạch ròi, tuỳ lúc, tuỳ việc. Trong năm mâu thuẫn nửa sau thế kỉ XIX ấy, mâu thuẫn 1 có tính chất toàn châu Á, toàn thế giới vẫn là cơ bản nhất, do đó gay gắt nhất, quyết liệt nhất.
Tuy nhiên, ở cuốn sách mỏng này, chúng tôi chỉ dám giới hạn vấn đề như đã thưa trước ở trên, chỉ chú tâm vào mỗi một nhân vật tiêu biểu nhất: Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), mặc dù ở Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu (thực ra là do Lương Khải Siêu viết) đâu chỉ đảo ngược sự thật lịch sử về Nguyễn Văn Tường mà thôi!


Điều cuối trong lời thưa đầu sách này, chúng tôi xin trình bày rõ: Lịch sử là chuyện quá khứ. Có lắm người vẫn muốn gác lại tất thảy các chuyện quá khứ hơn 150 năm qua, kể cả vấn đề Nguyễn Văn Tường, bởi họ cho rằng: Lúc này, đang trong thời đoạn mở cửa, đổi mới, xác lập quan hệ quốc tế đa phương, hữu nghị và hợp tác với cả các thế lực cựu thù, hãy để lãng quên của thời gian xoa dịu vết thương của cháu chắt giáo dân Thiên Chúa giáo đã trót lầm lạc thuở đó, và đồng thời xoa dịu nỗi đau khác về chất của hậu duệ bao người yêu nước, bình Tây sát tả, có liên quan đến giai đoạn lịch sử ấy… Nhưng có người không muốn tiếp tục bị làm nạn nhân của sự lừa bịp, nên quyết tâm làm rõ sự thật lịch sử trong cuộc chiến tranh dài dằng dặc [lẽ ra đã chấm dứt ở con số 117 năm (1858 – 1975), nhưng trong thực tế còn bị kéo dài thêm 14 năm sau (1858 – 1989)!]. Họ muốn làm rõ sự thật của cuộc chiến tranh 131 năm ấy để dấn bước vào tương lai, cho dù sự thật lịch sử đối với họ đau thương, nhục nhã đến thế nào đi nữa. Lại có người muốn đảo ngược tất thảy sự thật lịch sử thuộc giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX ấy để giành chính nghĩa về phía mình, hoặc ít ra cũng biện minh một cách giả trá cho tôn giáo mình trót tin theo, hay cho một mưu toan phục hồi chế độ phong kiến mà nền tảng tư tưởng của nó là chủ nghĩa bảo hoàng ngu trung ****. Và, có người kiên quyết phê phán nhà Nguyễn với tất cả quan lại của nó bất chấp lương tâm, thây mặc oan khốc, mặc dù họ thừa biết nhà Nguyễn chỉ thực sự là bù nhìn, tay sai cho giặc Pháp từ sau ngày Nguyễn Văn Tường bị lưu đày, 06.9.1885.
Phải chăng quả thật chúng ta không biết sự gác lại vấn đề lịch sử “thập giá và lưỡi gươm” vốn là một ý đồ thực dân, là nguyên nhân làm kéo dài cuộc chiến tranh lẽ ra không dài đến 117 năm hoặc 131 năm, cụ thể là có lắm nạn nhân cầm súng cho kẻ thù liên minh với bọn tả đạo trong Thiên Chúa giáo, vì bị bưng bít, xuyên tạc, đảo ngược sự thật lịch sử (đề cao Trần Lục, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, Đồng Khánh; bôi nhọ Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết…), hoặc ít ra cũng bị “phơn phớt”, “lướt qua”, không dám xoáy sâu vào thực chất của vấn đề bình Tây sát tả?
Đâu phải tất cả các sử gia đích thực ở các nước cựu thù muốn bị cưỡng bức ngòi bút, cam tâm bán rẻ sự nghiệp nghiên cứu cho đồng tiền mua chuộc? Đâu phải sử gia nào cũng là “sử nô”? Đâu phải nhà sử nào cũng “vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn”, viết sử nhưng không cần đến tư liệu!? Đâu phải không có sử kí về các sử gia? Sử gia cũng được bình công và bị luận tội!
Đâu phải nhân dân các nước ấy muốn mãi bị lừa dối, như đã từng đổ máu cho sự lừa dối đó?
Không, chúng tôi tin rằng, nhà nghiên cứu khoa học đích thực nào, dù ở nơi đâu, cũng đặt lương tâm và trí tuệ lên bài viết, cuốn sách của mình; nhân dân ở bất kì nơi đâu trên hành tinh này cũng thừa thiện chí và lòng trung thực để nhìn thẳng vào sự thật lịch sử, khi sự thật lịch sử được bóc đi tấm màn giả trá.
Khoa học lịch sử là đền đài, bia đá, biển đồng ghi công.
Khoa học lịch sử là pháp đình, là toà án nghiêm minh xét xử.
Khoa học lịch sử là sự suy ngẫm của trí tuệ và thao thức của lương tri.
Cánh cửa của Đất nước, của tương lai vẫn mở rộng…
Và ở những dòng cuối Lời thưa đầu sách này, xin lại nhấn mạnh một điều, theo bản thân chúng tôi, là rất quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử, ấy là sự thật lịch sử (gồm nhân vật và sự kiện…) như thế nào, phải được nhận thức, viết ra như thế ấy; không thể vì một lí do gì để bóp méo sự thật lịch sử nhằm phục vụ cho mục đích trước mắt, cho dù mục đích ấy là cao quý đến đâu. Hậu thế chúng ta có thể rút ra nhiều bài học bổ ích từ sự thật lịch sử Tổ quốc thuộc các giai đoạn, và cả từ lịch sử nước ngoài, hà tất phải bóp méo, thậm chí bịa đặt thêm, với sự nhân danh này nọ. Khuynh hướng bá đạo, thực dụng chủ nghĩa (“cứu cánh biện minh cho phương tiện” – Machiavel) trong sử học cần phải phê phán triệt để.
Tôi muốn nói thêm: Ngay cả việc hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử cũng phải có nguyên tắc của nó, phải được khoa học lịch sử bảo chứng.
Chúng tôi chỉ mong sử học phải là khoa học lịch sử đích thực, và người Việt Nam hãy là người Việt Nam đích thực, với lịch sử chân thực của dân tộc, gồm nhiều nhân tộc, trên Tổ quốc mình, với tầm nhìn mở rộng ra lịch sử thế giới… Do đó, chúng tôi mạnh dạn xuất bản cuốn sách này.
Lời thưa đầu sách này, ở một phần nào đó, xin được xem là những dòng khai đề. Nếu chỉ đặt vấn đề rồi dừng lại ở đây, hẳn chỉ thêm ngộ nhận. Xin vui lòng đọc thêm các trang kế tiếp.
Kính mong được chỉ dạy, góp ý, phê bình, mách bảo tư liệu.

TP. HCM., tháng 4, Nhâm Ngọ,
năm thứ 2 công nguyên Hoà Bình (tháng 5. HB.2).

TRẦN XUÂN AN



CƯỚC CHÚ (chú thích cuối trang [FOOTNOTE])
bài LỜI THƯA ĐẦU SÁCH:

* Xin xem: Ban Tuyên huấn Trung ương, Vụ Huấn học, Lịch sử thế giới, Nxb. Sách Giáo khoa Mác – Lê-nin, 1975, tr. 80 – 82, 94.

** Nxb. Tân Việt, b. 1964, tr. 343.

*** Trong tinh thần đoàn kết dân tộc nhưng vẫn bảo đảm tính khách quan sử học, với ý thức tôn trọng sự thật lịch sử, chúng tôi đã khu biệt rõ đối tượng cần phê phán thường được gọi là bộ phận “tả đạo” trong Thiên Chúa giáo. Đó là một số giáo hoàng La Mã (tại Vatican, Rome), những giám mục, linh mục (ở các nước) mang bản chất thực dân, hoặc thực dân đội lốt tu sĩ Thiên Chúa giáo. Xin phân biệt với bộ phận lương thiện, chân tu, không hề dính líu đến chính trị, thực dân, mà chỉ bị lợi dụng niềm tin tôn giáo… Đó là một nỗi đau lịch sử của thế giới và của Đất nước Việt Nam chúng ta.
Về Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, nhận định của các giáo sư như Trần Văn Giàu, Cao Huy Thuần, Yoshiharu Tsuboi, linh mục viện sĩ Trần Tam Tỉnh, Nguyễn Văn Kiệm… đã rất xác đáng ở các cuốn sách đã xuất bản. Đặêc biệt, chính phủ Pháp đã công bố tư liệu gốc của Pháp qua hai công trình của Cao Huy Thuần (1969), Y. Tsuboi (1982) với sự trợ giúp tư liệu của một số nhà sử học Pháp.
Giáo hoàng Jean-Paul II cũng đã bày tỏ sự thống hối chung trong buổi lễ ngày 12.3.2000 vừa qua…
Xin giới thuyết rõ nội dung cụ thể – lịch sử của từ “tả đạo” như vậy.
Vui lòng xem thêm: chú thích (8) ở cuối bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885)”.

**** Thể chế chính trị quân chủ phong kiến nói chung là cực kì phi lí: một dòng họ hoàng gia lại chiếm hữu cả vương quốc và thần dân như thể là tài sản và nô bộc! Chính thể quân chủ lập hiến nói chung chỉ là hình thái giao thoa, quá độ từ chủ nghĩa quân chủ phong kiến sang chủ nghĩa dân chủ tư sản. Chính thể sở hữu kiểu địa chủ ấy đã quá lỗi thời. Ở Việt Nam, quân chủ dưới hình thức nào cũng đều một đi không trở lại! Vả lại, sáu mươi năm (12.9.1885 – 1945), triều Nguyễn đã là ngụy triều nô lệ của thực dân Pháp. Việc gì phải đề phòng đến mức đả phong một cách hạ cấp, ấu trĩ! Do đó, cần phải thẩm định đúng mức về giai đoạn chống Pháp từ thời Tự Đức đến Hàm Nghi (1847 – 06.9.1885… & xuất đế: 05.7.1885 – 1888) một cách xác đáng, công bằng.
TXA.


Bài thứ nhất

TRẦN XUÂN AN

NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824-1886)
VỚI NHIỆM VỤ LỊCH SỬ
SAU CUỘC KINH ĐÔ QUẬT KHỞI (05 THÁNG 7. 1885)


(VÀI CHỦ ĐIỂM SỬ HỌC SƠ LƯỢC CẦN THIẾT
KHI CẢM NHẬN BÀI “GIẢI TRIỀU…” (1)
CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG).



GIẢI TRIỀU…

Tam thập niên lai phí kỉ kinh
Vô đoan dạ bán bách sầu sinh
Kì khai tam sắc, vân lôi biến
Già thính song xuy, kê khuyển kinh
Sơn kính vạn trùng thương thuý liễn
Thần tâm nhất dạng luyến đan đình
Thị phi nhiên phó thiên thu hậu
Xã tắc quân vương thục trọng khinh?

CHIA TÁCH TRIỀU CHÍNH…

Ba chục năm qua phí trí mình
Nửa đêm, gian tả! Ép buồn sinh
Cờ chia ra khoảnh, giông quyền biến
Kẹp siết theo roi, chó hãi kinh
Núi biếc vạn trùng, lo kiệu Ngự
Lòng son một dạng, luyến sân Đình
Đúng? sai? Ấy gửi nghìn thu luận
Theo nước – phò vua, đâu trọng khinh?
(Bản dịch thơ từ nguyên tác chữ Hán).

Hai câu bổ sung:
CHIA TÁCH TRIỀU CHÍNH…

U trung thùy bạch thiên thu hậu?
Xã tắc quân dân thục trọng khinh?

Lòng trung sâu kín, sau ai tỏ?
Tổ quốc, dân, vua, đâu trọng khinh?





1) MỘT BỐI CẢNH LỊCH SỬ HOÀN TOÀN BẾ TẮC.

Tứ thơ “chia tách triều chính” nhưng vẫn “nhất dạng” khởi từ tình huống mà Dụ Cần vương ghi rõ: “Từ xưa kế sách chống giặc không ngoài ba điều: đánh, giữ, hòa. Đánh thì chưa có cơ hội [điều kiện thực lực – TXA. chua thêm (:ct).], giữ thì khó lượng được sức, hòa thì chúng đòi hỏi không biết chán. Đương lúc sự thế muôn vàn khó khăn như vậy, bất đắc dĩ phải dùng quyền [quyền biến – ct.]” [1].
Hai mật dụ Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết từ Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị) gửi về cho Nguyễn Văn Tường (02.6 Ất dậu) và hoàng tộc (07.6 Ất dậu, 1885) cũng nói đến kế sách quyền biến với nhiệm vụ “kẻ ở” của ông.

2) SỰ PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ LỊCH SỬ: "TỔ QUỐC, VUA, DÂN, ĐÂU TRỌNG KHINH?".
NỖI KHỔ TÂM, LÒNG TRUNG NGHĨA CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG QUA MẬT DỤ HÀM NGHI GỬI VỀ TỪ TÂN SỞ (CAM LỘ, QUẢNG TRỊ).

Tất nhiên, “xã tắc, quân, dân, thục trọng khinh?”, câu ấy đưa ra một sự chọn lựa với hành động chính trị cụ thể trong tình huống lịch sử cụ thể, ai là “kẻ ở”, ai là “người đi”.
Chính trong mật dụ gửi về từ Tân Sở, Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) đã dùng hai từ ấy với xác quyết: “Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta quanh quẩn, còn ngươi [:Nguyễn Văn Tường – ct.] là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm; kẻ ở, người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản; trời đất cũng thực chứng giám…” [2]. Mật dụ ấy cùng với Dụ Cần vương được gửi về và phát đi trong một ngày (02.6 Ất dậu: 13.7.1885).
Nguyễn Văn Tường đã chọn lựa vị trí giáp mặt với kẻ thù một cách trực diện, một vị trí mà Tôn Thất Thuyết không có khả năng đảm đương. “Kẻ ở”, cũng là nhiệm vụ bà Từ Dũ giao phó cho ông [3]. Nguyễn Nhược Thị Bích kể bằng thơ:

“Thấy người trước đón lên đường
Gửi rằng: “Có Nguyễn Văn Tường chực đây”
Phán rằng: “Sự đã dường này
Ngươi tua [:lo; nên – ct.] ở lại, ngõ rày xử phân”
Vâng lời Tường mới lui chân
Giá ra khỏi cửa, dân lần dõi theo”.

Và ở Dậu Tuất niên gian phong hỏa kí sự:

“Thuyết – Tường sanh sự sự sanh [?! – ct.]
Đem Hàm Nghi trốn bôn hành Khiêm Lăng
Cùng nhau bàn luận rứa răng
Thuyết đi hộ giá, Tường băng về đầu
Khéo làm chước nhiệm [:nhịn? “thành thực”? – ct.]
mưu sâu
Pháp quan mắc mớp tưởng đâu thiệt tình” [4].

Cho dù với cách diễn đạt theo quan điểm thuộc chính kiến nào đi nữa, hai đoạn thơ trên cũng phản ánh về một sự thật lịch sử!

3) "LÒNG TRUNG SÂU KÍN, SAU AI TỎ?".

“U trung thùy bạch thiên thu hậu?”. Đó là nỗi băn khoăn của Nguyễn Văn Tường từ ngày 23.5 Ất dậu (05.7. 1885).

3.a. ĐẤU TRANH MẶT NỔI VÀ MẶT CHÌM.
Qua các tư liệu lịch sử có tính cùng thời, sau khi đối chiếu, loại trừ, thấy rõ Nguyễn Văn Tường vẫn công khai đấu tranh với De Courcy, De Champeaux, Silvestre, Nguyễn Hữu Độ trong hai tháng sau đêm Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23.5 Ất dậu, 1885). Hơn thế nữa, ông còn ngầm chỉ đạo phối hợp với phong trào Cần vương.

3.a.1. ĐẤU TRANH VỚI THỰC DÂN PHÁP, BỌN TAY SAI, CƠ HỘI.

Quốc sử quán triều Nguyễn đã ghi rõ [5], tất nhiên với giọng điệu và cái nhìn của người chép sử bảo hoàng dưới chế độ phong kiến. Dẫu vậy, qua đó, hậu thế vẫn thấy Nguyễn Văn Tường khẳng khái, không hề chịu khuất phục khi đối mặt với kẻ thù đã thắng trận, với bọn tay sai vốn đã từ lâu bán linh hồn cho quỷ thực dân và tả đạo:
“Lấy quyền tổng đốc Hà – Ninh là Nguyễn Hữu Độ thăng thự Vũ Hiển điện đại học sĩ, sung Cơ mật viện đại thần, vẫn sung Bắc kì kinh lược đại sứ.
Khi ấy Hữu Độ đã trở về Hà Nội, đô thống Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy – ct.], khâm sứ là Tham-bô [De Champeaux – ct.] bàn nói: Hiện nay Bắc kì lắm việc, Hữu Độ ở đấy hiểu nhiều, nên trao cho điện hàm, sung viện chức, và vẫn sung chức sứ ấy; phàm đốc, phủ, bố, án, ở các tỉnh Bắc kì cho đến các phủ huyện, nếu nơi nào có khuyết, cho do Nha Kinh lược sứ chọn tâu, chờ chỉ định đoạt. Nhiếp chính Miên Định, phụ chính Nguyễn Văn Tường phúc tâu [cho thái hoàng thái hậu Từ Dũ – ct.] việc đó là tạm thời [TXA. in đậm (:iđ)], nghĩ nên tạm nghe ý đó mà làm. Văn Tường nhân phụng dụ [của Từ Dũ – ct.] nói: trải bày lý do. Lại nói: do ngươi tuy việc thoả bàn vụ hợp thời nghi để xứng với lời khen của người mới được. Vì ý ám chỉ chê Hữu Độ nương tựa vào thế quan Pháp, để được ngôi cao, mà không phải tự bản ý do mệnh lệnh của Triều đình vậy.
(Trước đây, Nguyễn Văn Tường cùng Tôn Thất Thuyết cho rằng Hữu Độ ở Hà Nội phần nhiều hay nịnh hót, quan Pháp rất được vui lòng; Cơ mật viện nhiều lần đem việc tâu lên, chuẩn cho khiển giáng hay triệu về, Hữu Độ đều được quan Pháp che chở, rất là đáng ghét [iđ.].
Ngày tháng 7 năm ngoái, khuyên Bùi Hữu Tạo lấy việc xây sinh từ [của Nguyễn Hữu Độ – ct.] để tâu hặc, vì muốn nhân đó để đẩy Hữu Độ đến tội. Hữu Độ chứa sự bất bình đã lâu. Gần đây đô thống Pháp từ Bắc về Sứ quán, tức thì trước mời Văn Tường và Thuyết đến họp. Thuyết ngờ sợ cho là hẳn Hữu Độ đã có ngầm chỉ thế nào, nên mới như thế, cho nên sau không chịu đi; bèn gây hận; đến đây [Hữu Độ – ct.] về kinh, [ y – ct.] lại đến Sứ quán, rồi về nhà riêng [của Hữu Độ tại Huế – ct.], uỷ đón nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định tới bàn với Văn Tường; và [Hữu Độ – ct.] gièm [rằng – iđ. & ct.] không bàn với Thọ Xuân vương thì đừng đi. Kịp khi Hữu Độ tới Sở Thương bạc mà Văn Tường ở đó, hai người nói chuyện với nhau, đã hơi có ý khiếm hòa [:thiếu hoà khí – ct.]; Văn Tường phụng dụ này, lời lẽ lại có ý chê ngầm theo kiểu bì lí xuân thu [:bề ngoài với lí lẽ khác nhau như mùa xuân với mùa thu – ct.]. Hữu Độ tiếp dụ, giận lắm, nhân đó càng thêm để lòng)”.
Qua giọng điệu và cách nhìn không được trong sáng lắm của nhà chép sử triều Nguyễn, chúng ta gạt đi khía cạnh bị nhuộm màu cá nhân hiềm khích, sẽ thấy rõ, thực chất, đó là cuộc đấu tranh về vấn đề bố trí quan chức ở Bắc kì, vấn đề chống bọn tay sai, cơ hội, Nguyễn Hữu Độ là tiêu biểu.
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, trước đó đã “đặc biệt đem câu xem gió chuyển buồm trách Hữu Độ” [6]. Mà đâu chỉ Nguyễn Hữu Độ! Cùng một giuộc với y, còn có Nguyễn Trọng Hợp [7], Hoàng Cao Khải, Nguyễn Huy Lân… [8], và bất ngờ nhất, còn là Nguyễn Thân (con trai Nguyễn Tấn), lẫn Phan Đình Bình!
Thực chất của vấn đề bố trí nhân sự ấy, xét cho cùng, là vấn đề còn hay mất Bắc kì. Đó là nội dung của khoản 7 “hòa”ước Patenôtre (1884). Và tại sao lúc đó, kinh đô đã thất thủ, Nguyễn Văn Tường vẫn không chấp nhận “như quan Pháp có kiểm được quan Nam nào nên làm hoán cách, có xin hoán cách ấy, tức làm hoán cách” [9], mà chỉ miễn cưỡng, xem là tạm thời, còn đòi hỏi Pháp phải trải bày lí do [10], mặc dù Từ Dũ đã chấp nhận? Phải chăng Nguyễn Văn Tường đang dựa vào sức quật khởi của phong trào Cần vương đang dậy lên khắp cả nước, và theo mật dụ Hàm Nghi gửi về: “cùng y [De Courcy – ct.] giảng rõ về lí thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thỏa hiệp [:hiệp bàn thỏa mãn đôi bên – ct.], phàm những khoản gì bách thiết, phải chung nhau bàn đổi” [11]?
Dẫu trong thế kẹt lịch sử như vậy, Nguyễn Văn Tường vẫn đấu tranh trực diện với De Courcy, De Champeaux, Nguyễn Hữu Độ mà ĐNLT.CB., tập 36, tr. 236 – 237 đã ghi, như đã trình bày ở phần trên. Việc Nguyễn Văn Tường phải kí phụ ước (30.7.1885) ấy với Silvestre, Nguyễn Hữu Độ, đã được Nguyễn Nhược Thị Bích miêu tả:

“Pháp nhân lập ước hội đồng
Những điều lấn hiếp khó lòng y theo
Văn Tường chẳng khứng thuận chiều
Trái tình, Hữu Độ mượn điều Bắc quy” [12]

Từ năm 1921, ngay dưới chế độ thực dân, Trần Trọng Kim đã viết một cách kín đáo:
“Trong khi vua còn đi vắng, thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm giám quốc, giao binh quyền Binh bộ thượng thư cho viên khâm sứ De Champeaux, để bãi việc binh lính của ta đi [iđ.], và gọi quan kinh lược ở Bắc kì là Nguyễn Hữu Độ và quan tổng đốc Nam Định là Phan Đình Bình về cùng với Nguyễn Văn Tường coi việc Cơ mật. Vì hai ông ấy ở Bắc kì đã hiểu mọi việc và đã biết theo chính sách bảo hộ [iđ.], cho nên thống tướng đem về để thu xếp mọi việc cho chóng xong. Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu Độ không hợp ý nhau [iđ.], Nguyễn Hữu Độ lại trở ra Bắc kì” [13].
Hợp ý thế nào được với kẻ bán nước, “đã biết theo chính sách bảo hộ”, thực dân Pháp bảo gì nghe nấy!

3.a.2. ĐỐI PHÓ VỚI PHE CHỦ "HOÀ" (TỪ DŨ, MIÊN ĐỊNH...) VỚI PHƯƠNG THỨC "KHÔNG BIẾT GÌ HẾT".

Một vấn đề gay cấn nữa là Nguyễn Văn Tường không chỉ phải đối phó với Pháp và bọn cơ hội, tay sai, mà còn phải đối phó với phe chủ “hòa”, đứng đầu là Từ Dũ cùng Miên Định (giám quốc, nhiếp chính). Miên Định là một người có tư cách hèn hạ đến mức ngửa tay xin tiền khâm sứ Pháp, đến nỗi Đồng Khánh cũng cho là nhục quốc thể [14]!
Đối với thái hoàng thái hậu Từ Dũ, Nguyễn Văn Tường phải làm ra vẻ bị Tôn Thất Thuyết lừa dối [15] (2). Ông ở trong thế kẹt, nên phải vờ như giữa ông và Tôn Thất Thuyết chưa hề bàn bạc để khởi binh đêm 22 – 23.5 Ất dậu (05.7.1885), mặc dù đấy là cuộc khởi binh bất đắc dĩ, bị Pháp ép vào thế chẳng đặng đừng:

“Bằng còn ỷ thế quá ngang
Thời ta sẽ liệu quyết đường hơn thua!” [16].

Biết sẽ có khả năng bị thất thủ, nhưng đến lúc cũng “đành liều may rủi với trời” [17].
Cuộc Kinh Đô Quật Khởi chỉ nhằm phát động tổng nổi dậy Cần vương trên toàn quốc để đấu tranh ngoại giao, chính trị.
Nguyễn Văn Tường giả vờ “không biết gì hết” trong đêm 22 – 23.5 Ất dậu, 1885 [18] để ở lại làm nhiệm vụ đàm phán của “kẻ ở”, trong khi Tôn Thất Thuyết là “người đi”.
Phương thức “không biết gì hết” được Aldophe Delvaux cho là: “Ông phụ chánh thứ nhất (Tường) đã miễn cưỡng hành động dưới ảnh hưởng ngông cuồng của ông Thuyết, bất chấp mọi lời khẩn cầu của mẹ vua Tự Đức và ông hoàng Hoài Đức (em vua Thiệu Trị) [thay Hồng Hưu – ct.] là những người chống lại các sự vận động của phái yêu nước” [19] (3). Theo Delvaux, ấy là tin tức mật thám của Pháp trong buổi sáng 04.7.1885 mà De Champeaux nắm được! Thật ra, Nguyễn Văn Tường đã cho phép và đã thay mặt vua ra lệnh cho Tôn Thất Thuyết chuẩn bị kháng chiến, lập đạo quân Phấn Nghĩa cho thêm thanh thế (1883 – 05.7.1885), để đấu tranh với Pháp. Ngay trong những giờ phút sắp đến thời điểm nổ ra cuộc Kinh Đô Quật Khởi, khi Tôn Thất Thuyết “lại nghiêm sức các quân dinh kiểm soát, chỉnh đốn những đồ khí giới, Văn Tường với đình thần cho rằng đó cũng là thanh thế để phòng bị vậy” [20]. Và tất nhiên, nếu cần, cũng phải lấy tấn công làm phòng thủ.

3.a.3. VỚI PHƯƠNG THỨC "KHÔNG BIẾT GÌ HẾT", NHẰM PHỐI HỢP BÍ MẬT NHƯNG CHẶT CHẼ VỚI PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG.

Quả vậy, Nguyễn Văn Tường đã lãnh đạo Cơ mật viện họp bàn rất bí mật. Đã đến lúc không thể không thực hiện kế hoạch chính Nguyễn Văn Tường cùng Thân Văn Nhiếp, Nguyễn Quýnh vạch ra, và Nguyễn Văn Tường đã đích thân, tự nguyện tiến hành bước đầu từ 1864, 1866 [21]. Gần hai mươi năm trước thời khắc lịch sử này, đó là việc tâu xin mở thượng đạo, đặt cơ sở để khởi công xây dựng thành lũy Tân Sở, tuy còn dở dang. Khát vọng kháng chiến còn thể hiện ở bài thơ “Bệnh trung kí phỏng đồng chí” [22] (4) được viết vào quãng thời gian còn tiễu phỉ ở phía bắc, khoảng những năm đầu của thập kỉ 70 (thế kỉ XIX). Và vào năm 1883, kế hoạch đó lại được tiến hành một cách vữõng chắc với quy mô lớn [23]. Trong thời điểm cụ thể vào đầu tháng 7.1885 này, Tôn Thất Thuyết cũng như Nguyễn Văn Tường, cả hai cùng “nhất dạng”, nhất trí với sự tổng hợp phương thức: vừa kháng chiến vũ trang (đánh), vừa “không biết gì” (đàm), phương thức ông đã từng đấu tranh thắng lợi vào cuối năm 1873, đầu năm 1874. Thắng lợi ấy, ngay cả “Quốc triều chính biên toát yếu” [24] lẫn “Việt Nam sử lược” [25] đều ghi nhận, và trích dẫn nguyên văn cuộc đối thoại giữa Nguyễn Văn Tường với Philastre một cách thán phục (5). Còn đây là đoạn đối thoại giữa vua Tự Đức với triều thần và Nguyễn Văn Tường về phương thức “không biết gì” kết hợp với tiến công vũ trang, sau khi đã thành công:
“Vua bảo […] Viêm và Thuyết mùa đông năm ngoái [21.12.1873 – ct.] giết được đầu sỏ giặc, làm mất khí thế của chúng, Nguyễn Văn Tường nhân đấy dễ làm việc; Văn Tường nói: Tuy có trở ngại một chút, nhưng thực giúp được nhiều. Đấy là lời bình tâm không khoe công. Viêm và Thuyết nên [được – ct.] phong tước, giả lại chức quan” [26].
Đó là lúc thu hồi lại bốn tỉnh Bắc kì, sau khi hạ sát Françis Garnier trong sự tức tối điên cuồng của Jean Dupuis, Puginier, Rheinart và bọn “dữu dân” trong giáo dân (như tên ngụy tổng đốc Trương, vốn là thợ rèn theo “tả đạo” chẳng hạn) [27].
Phương thức đó, mười năm sau (1883) vẫn còn hiệu quả, với cái chết của Henry Rivière, cũng do quân Lưu Vĩnh Phúc trực tiếp hạ sát, dưới sự chỉ đạo của Hoàng Tá Viêm, tại Hà Nội.
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lại tiến hành một lần nữa, dữ dội và quyết liệt hơn, ngay tại kinh đô Huế, 1885.
Dẫu thất bại, Nguyễn Văn Tường, sau 05.7.1885, vẫn tiếp tục đấu tranh. Bởi thế và lực so với 1873, 1874 đã ngặt nghèo hơn, Nguyễn Văn Tường không còn ở tâm thế ung dung như mười hai năm trước, mà đang vô cùng khổ tâm. De Courcy không bị hạ sát! Mang Cá và Tòa Khâm không bị triệt tiêu như mong muốn! De Courcy và De Champeaux lại đang nhân danh Triều đình để thao túng!
Do đó, phong trào Cần vương vũ trang đã bùng lên khắp nước!
Quốc kế “chia tách triều chính” nhưng vẫn “nhất dạng”, phối hợp bí mật nhưng rất chặt chẽ, là một sáng tạo rất táo bạo, trong điều kiện thế và lực lúc bấy giờ!
Qua việc trích dẫn những tư liệu của Puginier, theo giáo sư Nguyễn Văn Kiệm [28], chúng ta thấy rõ sự thật lịch sử, với sự miêu tả của chính đối phương, về nỗ lực của Nguyễn Văn Tường: “Vua Hàm Nghi đi theo Thuyết còn phụ chính Tường ở lại, vẫn giữ nguyên chức tước, và sau một thời gian trá hàng, lại tiếp tục có những hành động đối kháng. Chính theo lệnh của y mà khoảng 30.000 giáo dân đã bị hại chỉ trong vòng 2 tháng và hơn 1.000 người khác cũng chịu chung số phận do các quan lại thi hành mệnh lệnh trên…”.
Delvaux, trong bài viết ở sách đã dẫn [29], cũng miêu tả cảnh “sát tả đạo” trước và sau 05.7.1885, đặc biệt là sau ngày lịch sử bi hùng ấy, tại Bình Định, Quảng Trị, Nghệ An. Trần Trọng Kim, trong “Việt nam sử lược” [30], cũng ghi rõ: “Tôn Thất Thuyết […] làm hịch Cần vương truyền đi khắp nơi […]. Sách Tây chép rằng […] dân bên đạo phải tám ông cố và hơn hai vạn người bị giết”.
Đối phương đã kết án Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết là “tàn nhẫn”, “hiếu sát”! Sự “tàn nhẫn”, “hiếu sát” (hai từ này về sau cũng bị Trần Trọng Kim xuyên tạc!), theo cách nói của các gián điệp thực dân trong lốt áo “tả đạo”, vốn đã khởi động từ lúc Pháp đánh chiếm Thuận An (Huế, 1883). Bởi “tả đạo” cũng chẳng khác gì những năm trước đó, ở Đà Nẵng, ở Gia Định, và ở Hải Dương, Ninh Bình… (6):

“Ngoài thời Tây tặc lưới giăng
Trong thời tả đạo chạy quanh bốn bề” [31]…

cho nên, không thể khác được, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, hai người thiết kế chiến lược và chiến thuật cho công cuộc kháng chiến chống Pháp bấy giờ, với tư cách là hai người lãnh đạo cao nhất Cơ mật viện lúc ấy, đã phải kiên quyết. Sự kiên quyết đó, Aldophe Delvaux đã viết lại theo giọng điệu thực dân ra vẻ khách quan của y:
“Triều đình thấy nguy cơ mất độc lập, đã bàn bạc ngầm các phương kế để chận đứng sự lấn chiếm của Pháp. […] Tôn Thất Thuyết, […] Nguyễn Văn Tường đã lôi kéo Hội đồng Cơ mật thoả thuận hai vấn đề quyết định như sau: Ra một mật lệnh cho các sĩ phu định rõ ngày tàn sát cùng lúc tất cả giáo dân trong toàn quốc [! sic! – ct.]. Sau khi loại kẻ tiếp tay cho quân xâm lược sẽ chuyển Triều đình và Chính phủ đến một pháo đài kiên cố, và đến các vùng hiểm trở bất khả xâm phạm. Đó chính là Cam Lộ hay đúng hơn là Tân Sở, và đó là trung tâm liên kết lực lượng ái quốc, là nơi Triều đình sẽ tạm dừng chân. Các chuẩn bị kì quặc để hình thành do những kỉ niệm quá khứ [của Nguyễn Văn Tường với vùng đất Cam Lộ – ct.], thảm hại thay, lại đã được thực hiện một phần lớn” [32].
Cũng về thời điểm 1883, theo Jabouille, phụ trách Tổ chức công vụ Pháp, công sứ Pháp tại Quảng Trị:
“Các người chống Pháp nói rằng: “Những người Thiên Chúa [giáo – ct.] phản bội Tổ quốc để làm lợi cho nước Pháp. Chúng ta chỉ hòa bình khi nào người Pháp không có sự ủng hộ trong nước…”” […]. “Việc đánh lấy Thuận An, và buộc chấp nhận đô hộ làm cho ông phụ chính Tường tức giận tột độ; nhưng ông Tường âm thầm, cẩn thận đè nén sự tức giận để dùng nó vào một dịp thuận lợi” [33].
Và sự thể, theo Puginier viết về thời gian hai tháng sau ngày Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23.5 Ất dậu, 1885), như đã trích dẫn, chắc chắn chỉ vì tình huống lịch sử bắt buộc, bởi, giáo dân thời bấy giờ, nói như Đoàn Trưng từ trước 1866:

“Gia-tô nội ứng ghê thay
Giúp đem lương thực chẳng ngày nào không”.

Quả thật, đến 1885, sự nội ứng của “tả đạo” Thiên Chúa giáo đã quá công khai!
Sách “Compendium…” của Raviê (Ravier), có đoạn viết: “Bấy giờ mới nổi cơn bão táp rất dữ dội quá sức; từ khi nước Nam có đạo chẳng hề bao giờ bổn đạo phải cực khốn cực nạn bằng bấy giờ; vì trước kia, khi cấm đạo, chỉ có quan quân đi bắt bớ mà thôi, còn dân ngoại thì chẳng lo việc ấy, lại cũng thương kẻ bị bắt bớ. Còn lần này quan và dân ngoại đều đồng tâm hiệp lực mà quyết tận diệt kẻ có đạo” [34].
Và theo Delvaux:
“… Các quan chức không muốn dính líu vào, sợ có sự không may về sau [cách diễn đạt của Delvaux – ct.], nên để việc đó cho các sĩ phu đảm nhận, còn riêng họ vẫn ở trong bóng tối.
Trong các tỉnh, trong khi các sĩ phu chuẩn bị chiến đấu, thì các vị quan lớn lo trấn an các công chức của chính quyền bảo hộ cũng như các vị linh mục và giáo dân. Khi mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi rồi, các sĩ phu tiến chiếm thành trì của các tỉnh, và các quan tỉnh thì nhanh tay giao nạp các thành trì ấy, sau một vài sự phản kháng qua loa; và như thế là những cuộc cắt cổ [!sic! – ct.] bắt đầu” [35].
Các quan ở tỉnh thì như thế, còn Nguyễn Văn Tường? Nguyễn Văn Tường cũng không thể khác hơn:
“Tướng De Courcy lấy tin tức [ở – ct.] ông Tường, ông này đều bảo đảm rằng sự trật tự an ninh đang hình thành khắp nơi. [Trong khi đó – ct.], các tin tức báo động dồn dập từ miền nam [tả kì – ct.] được gửi đến. Tướng Prudhomme muốn biết tường tận tình hình thật sự các việc, đã được ông De Courcy chấp thuận và cho phép đến các nơi ấy. Ông đi cùng ông De Champeaux trên chiếc tàu “Le Lutin” và đến Quy Nhơn ngày 18.8 [1885 – ct.], và ông đã mục kích toàn là máu lửa” [!sic ! – TXA. ct.] [36] (xem thêm chú thích (10)).
Lại theo Jabouille:
“Một vài nhà truyền giáo trong tỉnh và một vài ông quan cho biết rằng năm 1885, nhất là vào tháng 9, tỉnh Quảng Trị đã là hiện trường của một cuộc tiêu diệt có phương pháp, được tiên liệu, có tổ chức, để loại trừ các người theo đạo Chúa, gây ra bởi đảng của Văn thân, có sự ủng hộ tinh thần của ít nhất là hai quan phụ chính…” [37].
Các “nhà truyền giáo” đó chính là Aldophe Delvaux, Henry de Pirey – những kẻ đã ra vẻ khách quan, thực chất lại thù hận sâu sắc Nguyễn Văn Tường, người đã bị chính phủ Pháp “đày cho chết”! Gạt đi những xuyên tạc, bóp méo, bịa ra cái gọi là ý nghĩ quần chúng để bôi nhọ của các tên thực dân, tả đạo trong các bài viết của chúng với mục đích trả thù, phục hận, sẽ thấy sự thật lịch sử đã diễn ra.
Sự thật lịch sử ấy đã diễn ra, bởi lẽ, Triều đình Huế với lực lượng vũ trang khắp các tỉnh đang bị suy yếu, nhưng thật sự lực lượng quân sự của Pháp cũng không lớn, nên vấn đề do tình thế đặt ra là cần phải tiêu diệt bọn “dữu dân” nội phản, nhằm cô lập bọn thực dân Pháp, biến chúng lâm vào tình cảnh như “cua gãy càng”, mặc dù chúng chiếm được kinh thành Huế, thậm chí chúng đặt được ách “bảo hộ” lên cổ của dân tộc ta! [38] (6).
Và bởi lẽ, quan trọng, quyết định hơn, ấy là không còn cách nào khác, trong điểm đỉnh tột độ của mâu thuẫn đối kháng, giữa lực lượng dân tộc, yêu nước với bọn thực dân Pháp mà hậu thuẫn của chúng là “tả đạo”. Đó là biện pháp chẳng đặng đừng trước sự lấn hiếp của thực dân và “dữu dân”, để củng cố lại chính quyền nhằm làm hậu phương cho phong trào Cần vương, chống Pháp bằng vũ trang và bằng thương thuyết. Biện pháp bạo lực quyết liệt ấy, xuất phát từ tình thế: không còn hậu phương, hậu thuẫn nước ngoài nào khác! Chúng tôi nhấn mạnh: không còn hậu phương, hậu thuẫn nước ngoài nào khác! (7). Vả lại, đâu chỉ bởi mệnh lệnh của Nguyễn Văn Tường phối hợp với Dụ Cần vương của Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, trong cuộc nổi dậy toàn quốc này, mà còn do chính sức mạnh quật khởi hoàn toàn tự giác của nhân dân!
Chúng tôi đã đối chiếu với “Đại Nam thực lục, chính biên” đệ ngũ kỉ [39], và thấy rằng hiện thực máu lửa ấy là có thật. Tuy nhiên, còn phải thấy rõ, Delvaux, Puginier, H. Ravier, Jabouille, các tên thực dân khác đã thổi phồng con số giáo dân theo Pháp xâm lược đến mức kinh hoàng. Sự thổi phồng quá đáng ấy (ngay cả trong vè “Thất thủ kinh đô” [40]), là nhằm biện minh cho việc Pháp đặt ách đô hộ lên cổ dân tộc ta, nhằm kích động giáo dân ở “mẫu quốc” và Tòa thánh La Mã (8).
Như thế, chỉ có thể là: vì tình huống lịch sử, Nguyễn Văn Tường không thể bày tỏ cho mọi người biết, chính ông cùng Tôn Thất Thuyết đã chuẩn bị, rồi cùng tiến hành cuộc Kinh Đô Quật Khởi, lại phối hợp liên lạc thường xuyên với phong trào Cần vương cũng theo cách vừa tiến công vũ trang (kẻ đánh), vừa “không biết gì” (người đàm), cho đến ngày Nguyễn Văn Tường bị đày đi Côn Đảo; và uy tín Nguyễn Văn Tường quá lớn, chúng đày ông tít tận Tahiti, gần nam châu Mỹ, sau nhiều thủ đoạn li gián Nguyễn Văn Tường với Tôn Thất Thuyết (như vụ đốt nhà Nguyễn Văn Tường chẳng hạn)!
Việc Nguyễn Văn Tường bị lưu đày, lại theo Delvaux, ngoại vụ Paris tại Việt Nam, trong bài viết ở sách đã dẫn [41]: “Một sự mâu thuẫn sâu xa chia rẽ tướng De Courcy và ông De Champeaux, nhất là đối với vấn đề ông phụ chánh Tường. Vị tướng thì quả quyết là ông Tường luôn luôn liên lạc với ông Thuyết và [trước đó – ct.] lại nhúng tay vào mọi cuộc âm mưu lật đổ, và đem xuống tàu đày đi Côn Đảo ngày 6.9 [1885 – ct.]… […] lại chuyển đến Tahiti […]. Ông De Champeaux lại cho rằng ảnh hưởng của ông Tường là rất lớn… […]”.
Tất nhiên, Delvaux vẫn cài vào bài viết, ngay cả ở đoạn văn trên những câu chứa đựng sự mị dân, sự thất thiệt, chẳng hạn như sự “độ lượng” của chúng, thời điểm Nguyễn Văn Tường chết (xem thêm chú thích (15)).
Chúng tôi cũng không trích dẫn để nhằm nêu lên sự mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, cách đối xử đối với Nguyễn Văn Tường, theo quan điểm thực dân riêng của mỗi tên đầu sỏ giặc. Điều đáng lưu ý, chúng “quả quyết là ông Tường luôn luôn liên lạc với ông Thuyết”, “ảnh hưởng của ông Tường là rất lớn” [42]. Điều này khớp với “Đại Nam thực lục, chính biên”: hai mật dụ Hàm Nghi gửi về, và chắc hẳn có những tập tâu đối của Nguyễn Văn Tường gửi lên chiến khu Tân Sở. Việc án sát Quảng Trị Tôn Thất Nam được ủy nhiệm lên Tân Sở họp với Tôn Thất Thuyết cũng đã được ghi nhận rõ [43].
Phương thức “không biết gì”, khác với lần thành công cuối năm 1873 bước sang 1874, là lần này (1885) không có đoạn kết chiến thắng, nên Nguyễn Văn Tường không được dịp cùng Tôn Thất Thuyết bày tỏ trước Tam Cung và đình thần cùng nhân dân. Tuy nhiên, Quốc sử quán triều Nguyễn biết rõ điều đó. Chi tiết Dụ Cần vương và mật dụ gửi Nguyễn Văn Tường từ Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị) được viết một ngày, phát đi và gửi về một lúc (02.6 Ất dậu, 1885) đã làm sáng tỏ. Và bản án chung thẩm cáo thị của hai tên De Courcy, De Champeaux, vô hình trung, làm sáng tỏ như một xác quyết của “lân sử” (tín sử). Chúng tôi sau khi nghiên cứu trọn đệ tứ, đệ ngũ, đệ lục kỉ (tập 27 – tập 38) của “Đại Nam thực lục, chính biên”, lưu ý đến “bản án” về Nguyễn Văn Tường, đã hơn một trăm năm trước được Quốc sử quán cẩn thận ghi chép lại, thấy rằng bản án của thực dân đối với Nguyễn Văn Tường, “kẻ thù không đội trời chung” của chúng, vô hình trung mà hiển nhiên, là bản án đẹp nhất, rực rỡ nhất, chưa từng có trong giai đoạn đầu chống Pháp của dân tộc ta, một giai đoạn lịch sử bi hùng nhất với một nhân vật bi hùng nhất: Nguyễn Văn Tường!
Tất nhiên, phương thức “không biết gì” cũng đã gây ra quá nhiều ngộ nhận và dễ bị xuyên tạc. Sóng đôi với ông, người cùng thực hiện kế hoạch kháng chiến với ông (mặc dù Tôn Thất Thuyết trước tháng 11 âl., 1881, hầu như không biết gì về Tân Sở, hệ thống sơn phòng và thượng đạo Bình Định – Nghệ An), Tôn Thất Thuyết nhận tất cả hào quang bi tráng. Nói thế, thực ra, Tôn Thất Thuyết cũng bị xuyên tạc, bôi nhọ, nhưng kẻ thù khó lòng xuyên tạc, bôi nhọ hơn, và hậu thế cũng dễ thanh minh hơn, bởi Tôn Thất Thuyết là hình ảnh của người kháng chiến trong điều kiện bế tắc chung của các nước Á, Phi, Mỹ la tinh thuở bấy giờ! Trong khi đó, người ta dễ đánh đồng hoặc nhầm lẫn Nguyễn Văn Tường với cánh chủ “hòa”, đầu hàng! (Xem thêm chú thích (13)).
Phương thức tổng hợp, “không biết gì” (kẻ ở, đấu tranh bằng thương thuyết) và chiến đấu vũ trang (người đi, đấu tranh bằng quân sự), Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã hợp lực tiến hành, trong lần Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885), dẫu sao, cũng đã sáng tỏ *.

3.b. NHIỆM VỤ LỊCH SỬ VỚI LẬP TRƯỜNG KIÊN ĐỊNH, THÁI ĐỘ CHÍNH TRỊ "NHẤT DẠNG".
SỰ NGỘ NHẬN, XUYÊN TẠC.
THỰC DÂN PHÁP THAO TÚNG TRONG SỰ NHÂN DANH TRIỀU ĐÌNH.
NỖI KHỔ TÂM CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG.

Trong hai tháng sau ngày Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ, từ 05.7 đến 06.9.1885, các nhà sử học thường quy hết trách nhiệm cho Nguyễn Văn Tường. Cần thấy rõ, trong hai tháng ngắn ngủi ấy, Nguyễn Văn Tường hết bị quản thúc bởi lính Pháp, đại uý Schmitz [44], lại bị chi phối bởi De Courcy, Caspar, trực tiếp là De Champeaux, phó công sứ Hamelin. De Champeaux trở thành thượng thư Bộ Binh, Cơ mật viện đại thần của Triều đình Huế!
Về cái án tử hình của Đặng Hữu Phổ (con trai của phò mã Cát, đồng hương với Nguyễn Luận), Quốc sử quán triều Nguyễn [45] đã ghi rõ nội dung: Đặng Hữu Phổ chống việc phủ Thừa Thiên sức cho huyện Quảng Điền tăng cường quân số. Như thế, vô hình trung Đặng Hữu Phổ đã tiếp tay cho Pháp trong việc Pháp yêu cầu Triều đình không được tái vũ trang [46]. Về phía Pháp, dẫu vậy Pháp vẫn xem Đặng Hữu Phổ nổi loạn! Và chính Đặng Huy Xán, chú ruột của Đặng Hữu Phổ, đã lừa bắt ông, đem nộp cho giặc (theo một số tư liệu và Đặng phả)! Vụ Lê Trung Đình cũng như thế, nhưng ở dạng cụ thể khác. Lê Trung Đình lại tôn phù Tuy Lí vương [47], một nhà thơ chủ “hòa”, câu kết với Pháp thời Hiệp Hòa, bị đày vào Quảng Ngãi! Do việc tôn phù này, người ta tưởng Lê Trung Đình là kẻ cơ hội! Đúng như một câu trong sắc dụ của Từ Dũ lâu nay vốn do Nguyễn Nhược thị Bích viết thay: “Ba tháng bỡ ngỡ, bốn biển ầm vang” [48]! Đặng Hữu Phổ, Lê Trung Đình yêu nước, chống Pháp, nhưng lại quờ quạng, thiếu sáng suốt. Sự chỉ đạo của Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường cũng chưa sâu sát, cụ thể từng “bước đi”. Khởi nghĩa hưởng ứng dụ Cần vương là đúng, nhưng chống Triều đình lúc Nguyễn Văn Tường còn giữ vị thế hay tôn phù Tuy Lí vương là sai (mặc dù Miên Trinh từ chối)! Bởi lẽ, Nguyễn Văn Tường vẫn “nhất dạng” với Tôn Thất Thuyết trong nhiệm vụ “kẻ ở”, “người đi”. Vả lại, quyết án Đặng Hữu Phổ là do triều nghị, Triều đình lại có cả De Champeaux ở vị trí trọng thần, chủ chốt, quyết định! Từ Dũ, Miên Định chuẩn y! Còn Lê Trung Đình lại do chính các tỉnh thần và Nguyễn Thân hội bàn, chém trước, báo cáo sau [49]! Do đó, không thể quy hết mọi việc Pháp nhân danh Triều đình để đổ cả cho Nguyễn Văn Tường!
Ngoài hai vụ việc trên, trước sức ép của Pháp, Nguyễn Văn Tường còn phải tự giằng xé và bị ngộ nhận bởi vài nỗi đau lòng khác.
Với chính trị, chúng ta phải thông cảm, thậm chí có những việc rất khổ tâm, cũng phải vờ chấp nhận để qua mắt giặc Pháp và phe chủ “hòa”, chẳng hạn như cùng Trương Quang Đản bốn lần viết thư cho Hồ [Văn] Hiển đưa Hàm Nghi – linh hồn của cuộc kháng chiến – về lại Huế trong khi Pháp vẫn tiếp tục lấn hiếp [50] [(9) và xem thêm chú thích (11)]. Thật lòng, Nguyễn Văn Tường cũng như Trương Quang Đản chỉ muốn rước vua Hàm Nghi về sau khi cuộc đánh phối hợp với đàm đã đạt được mục tiêu có giới hạn với sự nhượng bộ của Pháp, như Tôn Thất Thuyết đã nói với Phạm Hữu Dụng: “phải nên đoàn kết [thoả hiệp tạm thời – ct.] với quân Pháp; [Pháp – ct.] không lại lấn áp như trước, thì mới đón xe vua về” [51], đồng thời theo hai mật dụ vua Hàm Nghi (cùng Tôn Thất Thuyết) gửi về từ Tân Sở cho Nguyễn Văn Tường và hoàng tộc.
Nhưng cũng cần thấy rõ, sắc dụ về việc truy bắt Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, treo giải cho ai bắt được, chém được, chính Đồng Khánh về sau cũng xác nhận là do Từ Dũ ban hành (tất nhiên Từ Dũ cũng đành phải theo yêu cầu của Pháp!) [52].
Hơn nữa, sử học phải phân tách rõ “hư chiêu” và “thực chiêu”! Tất nhiên đó chỉ là hư dụ, chứ không phải thực dụ (thực dụ trong tình huống này phần lớn phải là mật dụ).
Tuy vậy, chúng ta cũng cần ghi nhớ, vào cuối tháng 8, đầu tháng chín 1885, còn có một số sắc dụ khác của Tam Cung (đứng đầu là Từ Dũ) với lời lẽ của những bản cáo trạng về sự câu kết giữa thực dân cố đạo, giáo dân với thực dân viễn chinh Pháp, đồng thời khẳng định “thù ghét [giặc Pháp – ct.], ai bảo là không nên. Không gì bằng cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay [04 – 05.7.1885 – ct.]…” [53]. Trong tình huống kinh đô thất thủ, cực kì khó khăn, thất thế ấy, các sắc dụ tố cáo công khai giặc Pháp và tả đạo đó đã chứng tỏ một tinh thần đề kháng, bất khuất ở mức độ nhất định. Phải chăng chính Nguyễn Văn Tường đã tác động rõ rệt vào các sắc dụ khá đanh thép này? Chính bản án cáo thị của hai đầu sỏ giặc (De Courcy, De Champeaux) trong vài ngày sau đó sẽ làm sáng tỏ.
Ngoài ra, những gì Nguyễn Văn Tường làm được cho việc tái củng cố vương quyền nhà Nguyễn từ triều đình cho đến huyện xã, cho phong trào Cần vương là những chỉ đạo vừa thành văn, vừa khẩu lệnh, vừa công khai, vừa bán công khai, trong những lúc thoát khỏi đôi mắt cú vọ của bọn De Champeaux, bọn chủ “hòa” (thực chất là đầu hàng) (9), (10)…
Với chức năng, nhiệm vụ lịch sử vừa thoả hiệp vừa đấu tranh của mình, Nguyễn Văn Tường đã bị bọn thực dân cố đạo căm hận, báng bổ:
“Puginier, giám mục ở Bắc kì, và Camelbeck, giám mục ở Quy Nhơn, đã mở một chiến dịch điên cuồng tấn công chống Nguyễn Văn Tường mà theo họ là kẻ thù lớn nhất của người Pháp và đồng thời cũng là người An Nam điêu toa nhất [(!?!) nói với Pháp thế này, lại làm thế khác – ct.] mà người ta có thể gặp… Sự hợp tác của ông ta và De Courcy là một mưu mô [của ông ta – ct.] nhằm đánh lừa người Pháp” [54].
Trong một mật dụ từ Tân Sở gửi về cho hoàng tộc (07.6 Ất dậu [18.7.1885]), sau khi hiểu rõ những gì Nguyễn Văn Tường đã tiến hành ở Huế, Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) đã viết:
“Nay đã có phụ chính huân thần Nguyễn khanh [tức Nguyễn Văn Tường – ct.] ở lại giảng nói, che chở nhiều việc, hơi được yên ổn; huân thần tâm sự như thế, cáng đáng như thế, thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được. Trẫm cũng dụ cho đại thần ấy hết lòng bàn tính công việc, tâu chờ quyết định” [55].
Đó là mật dụ gửi cho hoàng tộc, Hàm Nghi (cùng Tôn Thất Thuyết) đã viết về Nguyễn Văn Tường như vậy. Và, đúng ra, mọi sách lược (xây dựng thành luỹ Tân Sở cùng những phương án kháng chiến, đánh – đàm, với nhiều mức độ khác nhau, tuỳ tình hình… ) đều do Nguyễn Văn Tường góp phần vạch ra, từ năm 1866 [56], Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) chỉ nhắc lại ba phương án thích hợp. Điều đáng lưu ý trong mật dụ này là Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã rất thấu hiểu và chia sẻ nỗi khổ tâm xé ruột của Nguyễn Văn Tường trong nhiệm vụ lịch sử với vai trò đàm phán đã được phân công, từ sau ngày Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ.
Nỗi khổ tâm xé ruột của Nguyễn Văn Tường còn phải kéo dài đến hơn một tháng rưỡi sau, tính từ ngày vua Hàm Nghi gửi mật dụ về Huế, 07.6 Ất dậu (18.7.1885)!
Cũng cần phải khẳng định: Những nỗi đau lòng của Nguyễn Văn Tường là do phải thực hiện nhiệm vụ được giao phó của vua Hàm Nghi và của nhóm chủ chiến triều đình Huế, hay nói đúng hơn, nhiệm vụ ấy là do vận mệnh lịch sử của đất nước ấn định cho Nguyễn Văn Tường:
“Y [Cô-ra-xy (De Courcy) – ct.] thấy ta càng khuất, y càng ngày càng lấn, khiến Triều đình không còn mặt mũi nào, vạn bất đắc dĩ mà ta mới phải làm cái kế bỏ thành đi ra ngoài. Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta cùng quanh quẩn, còn ngươi [Nguyễn Văn Tường – ct.] là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm; kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản. Trời đất thực cũng chứng giám. Ngươi nên khéo thể tấm thịnh tình của tiên hoàng đối với nước láng giềng rất có thuỷ chung và cùng y giảng rõ về lý thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thoả hiệp [:hiệp bàn thỏa mãn đôi bên, không phải “thỏa hiệp vô nguyên tắc” – ct.], phàm những khoản gì bách thiết, chung nhau bàn đổi, cốt khiến cho hai nước như anh em, vinh nhục cùng quan hệ, vui lo cùng chung nhau mười phần chân thành, không còn dùng đến uy thuật. Lúc này ta mệnh cho hồi loan, trên để phụng dưỡng ba cung, dưới để yên lòng thần dân, khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.] cùng với Tôn Thất Thuyết trung trinh chói lọi, muôn thuở cùng sáng, những phường nịnh tử gian phu, đều phải lặn hình giấu bóng. Nam triều ta há chẳng hân hạnh ư, nước Đại Pháp chắc cũng vui vẻ mà cùng giữ lấy cường thịnh vậy.
Nếu không như thế thì các miếu xã lăng tẩm và các vương công không kịp đi theo ấy thì hết thảy uỷ cho khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.]. Ta duy có chọn đất lánh ở, sợ trời vui trời, rường cột cương thường, cả nước cùng thế, không đâu không phải là Triều đình và không phải là tôi con vậy. Trẫm quyết không cùng với họ tranh được thua vậy.
Tình thế ví lại không thôi, trẫm nguyện phái thêm cán viên, lấy đường đi khắp các nơi, nghiêm sắc cho Ninh Bình trở về phía bắc, bao nhiêu quan tỉnh, phủ, huyện đều để ấn lại mà đi, người nào như có trung nghĩa, tài lược, không kể quan hay dân, đều cho được tiện nghi làm việc [nhân dân, sĩ phu khởi nghĩa, kháng chiến quyết liệt – ct.], cốt không phụ tấm lòng tốt của triều đình dưỡng dục, tác thành, yên được bóng thiêng liêng ở trời của liệt thánh, và đáp phó được nguyện vọng [khởi nghĩa chống Pháp – ct.] tha thiết của thần dân trong nước. Khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.] nên nghĩ cho kỹ nhé, có muốn nên tâu đối, thì gởi theo đường trạm chờ xét cũng chẳng hại gì” [57].
Đó là các phương án tuỳ theo mức độ bức hiếp của thực dân Pháp và tả đạo. Nói rõ hơn, trong tình huống ấy, có ba phương án:
Một là, nếu Pháp và tả đạo tuân thủ “hoà” ước 1874, hay ít ra, “hoà” ước 1884, không tăng cường sự lấn hiếp, nhà vua và Tôn Thất Thuyết sẽ về lại Huế.
Hai là, nếu Pháp và tả đạo xé bỏ “hoà” ước 1884, vẫn tăng cường sự lấn hiếp ở mức độ có thể chấp nhận được, nhà vua và Tôn Thất Thuyết sẽ ở lại Tân Sở nhưng không đẩy mạnh sự phát động phong trào Cần vương bằng vũ trang, và giao phó kinh thành Huế cùng sự an nguy của hoàng tộc cho Nguyễn Văn Tường.
Ba là, nếu Pháp và tả đạo quyết xé bỏ “hoà” ước 1884, quyết tăng cường sự lấn hiếp đến mức không còn chút chủ quyền nào để có thể mưu tính cho đại cục về sau, nhà vua và Tôn Thất Thuyết sẽ phát động mạnh mẽ và rộng khắp phong trào kháng chiến Cần vương, kể cả Bắc kì vốn đã bị “bảo hộ”.
Ở mật dụ tiếp theo, vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) vẫn tin tưởng Nguyễn Văn Tường đàm phán với mục tiêu “vụ [:nhằm – ct.] được như thường” (ít ra là như “hoà” ước 1884):
“… Phàm việc gì cùng với Nguyễn khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.] châm chước thoả đáng, cốt không trái với cương thường của trời đất. Nên được nền bình trị lâu dài của quốc gia, ngõ hầu để được tiếng thơm muôn đời, thế là lành lắm, tốt lắm. Trời đất dài lâu, gặp nhau có hẹn. Nước nhà suy thịnh, gặp hội đổi thay, càng nên trân trọng di dưỡng, để yên tấm lòng xa của người tuổi trẻ. Còn ra sẽ uỷ cho Nguyễn khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.] sẽ vì ý thân điều đình cho thoả đáng, vụ được như thường. Phàm người họ ta, cần tin lời ta nhé, thế thì ta mới yên lòng…” [58].
Thế và lực nước ta bấy giờ là không thể đương đầu với Pháp, tả đạo cùng liên minh các nước thực dân của chúng (Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nga …), trong một bối cảnh chung ở Á, Phi, Mỹ la tinh là hoàn toàn bế tắc, nhất là khi thế trận toạ sơn quan song hổ đấu (chiến tranh Pháp – Hoa, 1883 – 1884) đã hoàn toàn thất bại về phía Trung Hoa. Bởi vậy, cho nên, sắc dụ của vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về với khí thế và mục tiêu đấu tranh đành phải hạn chế như thế. Phải nhìn nhận mục tiêu đề ra không thể vượt quá khả năng của hiện thực lịch sử, mà phải chờ thời cơ trong nỗ lực tạo ra thời cơ (gồm thế và lực mới) – “gặp hội đổi thay”! Với quan điểm lịch sử – cụ thể, mọi nhận định đều phải đúng mức.
Nếu không thấy rõ mục tiêu có hạn chế với phương thức quân sự – ngoại giao vừa đánh vừa đàm (Tôn Thất Thuyết – Nguyễn Văn Tường phối hợp), phương thức đàm phán vừa thoả hiệp vừa đấu tranh (Nguyễn Văn Tường đảm nhiệm), không phân tách rõ “hư chiêu” và “thực chiêu”, với các phương án trên, sẽ không hiểu được thời đoạn lịch sử hai tháng sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ (05.7 – 06.9.1885, Ất dậu)! Trong đó, sự phối hợp nhiệm vụ lịch sử có tính quyết định nhất vẫn là: Tôn Thất Thuyết (“đường núi vạn trùng lo kiệu biếc”) – Nguyễn Văn Tường (“lòng tôi một dạng giữ sân son”) .

3.c. THÁI ĐỘ CHÍNH TRỊ "NHẤT DẠNG" VỚI LẬP TRƯỜNG KIÊN ĐỊNH CHỐNG PHÁP, KHÔNG CHẤP NHẬN "BẢO HỘ" CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG QUA CÁC BẢN KẾT ÁN CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ NGỤY TRIỀU ĐỒNG KHÁNH.

Đại Nam thực lục, chính biên, từ tập 36 trở về trước, dù ở trong xiềng xích ý hệ bảo hoàng, vẫn thể hiện được tinh thần chống Pháp, lập trường yêu nước. Quốc sử quán đã ghi rõ [59] :
“Đô thống Đại Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy – ct.] bắt thái phó, Cần Chánh điện đại học sĩ, lãnh Lại bộ thượng thư, kiêm sung Cơ mật viện đại thần, Kì Vĩ quận công, là Nguyễn Văn Tường xuống tàu thủy chạy đi Gia Định.
Cứ theo lời cáo thị của khâm sứ Tham-bô [De Champeaux – ct.] nói: Văn Tường từng đã chống cự nước ấy [nước Pháp – ct.] thực đã nhiều năm. Từ khi cùng Tôn Thất Thuyết sung làm phụ chánh, chỉn [:vốn; vẫn – ct.] lại đổng suất quan quân nổi dậy công kích quan binh nước ấy [nước Pháp – ct.]; và Văn Tường do đô thống ấy xin [chính phủ Pháp – ct.] cho hai tháng [nhằm để – ct.] lo liệu việc nước cùng Bắc kì cùng được lặng yên vô sự; [kì thực – ct.] đến ngày 27 tháng ấy hết hạn, mà các tỉnh tả kì về phía nam (9), (10), có nhiều nơi nổi quân chém giết dân giáo. Đến đây đô thống ấy định án, ưng [:nên; phải – ct.] kết tội lưu.
Hôm ấy chở đem Văn Tường đến cửa biển Thuận An. Buổi chiều Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình đi tàu thủy Pháp cũng về đến cửa biển ấy.
(Thuyền Pháp chở Văn Tường đến Gia Định, sau chở gồm cả Phạm Thận Duật, Lê Đính đem về nước ấy [thuộc địa Tahiti – ct.]; Thận Duật trong khi đi đường bị ốm chết ở trong tầu, buông xác xuống biển) …”.
Đó là bản kết án của thực dân Pháp [60]!
Bản kết án cáo thị ấy đã làm bùng lên một cuộc “sát tả” dữ dội tại Quảng Trị từ ngày 06.9.1885 (28.7 âl., Ất dậu) [61]!
Và đây là quốc thư của tên vua tay sai, bù nhìn Đồng Khánh, có chi tiết vu vạ, đổ tội không đúng sự thật, có chi tiết khẳng định đúng (đối chiếu với ngôn ngữ tường minh ở ĐNTL.CB., cuối tập 35 và trọn tập 36, sđd.). Lời lẽ ấy – giọng lưỡi của y:
“Quyền thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết […]. Ngày 23 tháng 5 năm nay, kinh thành thất thủ, xe tiên đế dời đi, hai người ấy thực là căn nguyên của tai vạ […]” [62] (9).
Đình thần, nói theo cách nói của Trần Trọng Kim, “nhiều người đã biết theo chính sách bảo hộ cho nên mọi việc trong Triều đều được yên ổn” [63]. Đình thần ấy cùng Tôn nhân phủ kết án (!):
“Tôn nhân phủ và đình thần dâng sớ tâu bày tội trạng của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, xin tước hết quan tước và tịch thu gia sản; tham tri Trương Văn Đễ đã quá cố, và chưởng vệ Trần Xuân Soạn, đều là bè đảng làm loạn, cũng tước cả quan chức. Trong bọn ấy, thì Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, xin do quan địa phương xét bắt bằng được và chém ngay, để tỏ rõ hiến pháp trong nước. Vua nghe theo” [64] (9), (11).
Lời dụ và cáo thị của Đồng Khánh và khâm sứ Pháp cùng các khâm sai của Triều đình, trong chiến dịch triệt hạ uy tín nhóm chủ chiến (in ra, niêm yết khắp nơi):
“Tóm lại, là do tự Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lộng quyền […]. Hai quyền thần ấy lần này đón lập, nhiều việc man muội [! – ct.], trước thì lợi về dễ khống chế, sau chỉ mưu cho bản thân [! – ct.]; bỗng dưng gây hấn [! – ct.], nghiêng đổ tôn xã, bắt hiếp vua chạy đi; Nguyễn Văn Tường liền quỷ quyệt [?mưu trí! – ct.] đem thân quay về thú tội [! – ct.] với quan đô thống Đại Pháp, rồi đã bị tội lưu, Lê Thuyết [bị đổi họ – ct.] thì sống một cách tạm bợ trong rừng. May mà nước Đại Pháp có lòng nhân thứ [! – ct.], giúp ta chấn hưng [! – ct.] được nước đã mất [! – ct.], nối lại được thế đã đứt, nước nhà đó mới còn [! – ct.]” [65] (9).
Đúng là giọng lưỡi hèn hạ, đánh giá ngược một cách trắng trợn tất cả!
“Duy trẫm tin là các sĩ phu, thực tình là nhận nhầm, chứ không có lòng làm loạn; Triều đình đã đem đầu mối họa loạn, là tự Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết gây ra, nói rõ ràng với quan Đại Pháp, đã tin không ngờ, để cho Triều đình ta phải xử trí ngay, cho lương giáo đều được yên ổn” [66] (9).
Cũng như cách thổi phồng, bịp bợm, hàm hồ của các tên thực dân, gián điệp đội lốt tôn giáo, khái niệm, con số “dân giáo” của Đồng Khánh, Hector và các khâm sai cũng thế. Chúng muốn biến cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, bảo vệ văn hóa dân tộc thành cuộc chiến tranh tôn giáo, còn cuộc xâm lược của thực dân Pháp thành “thánh chiến”, “thập tự chinh” (bấy giờ nhân dân, sĩ phu gọi thập giá là thập ác), nhằm kích động giáo dân ở “mẫu quốc”, kích động cả Tòa thánh La Mã (Rome)!
Thực ra, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng phối hợp mệnh lệnh, trong tình huống buộc lòng phải đề ra kế sách “chia tách triều chính” (đánh và đàm), chỉ nhằm vào thực dân Pháp, bọn lính lê dương (légionaire étrangère), bọn cố đạo làm gián điệp cho Pháp, bọn Việt gian, trong đó có một bộ phận không ít là “dữu dân” đích thực.
Sự kiện đó, ngay cả trước khi Nguyễn Văn Tường bị lưu đày, Từ Dũ đã hiểu ra, và bằng ngôn ngữ tường minh, đã chỉ rõ nguyên nhân đồng thời đánh giá đúng, ít ra là ở hai điểm sau đây:
“Từ điều ước tái định [Dupré, 1874? Patenôtre, 1884? – ct.] đã được phân minh, khiến nước Pháp trước tự bại hoà gây biến, thì phàm ai ở đất vua, cũng đều thù ghét [giặc Pháp – ct.], ai bảo là không nên. Không gì bằng cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay…” [67], gồm cả hiện thực Cần vương, kháng chiến, máu lửa sau đó…
Tuy thế, cáo thị niêm yết của triều Đồng Khánh và Hector cùng các khâm sai cố nhiên vẫn là luận điệu với cách đánh giá ngược theo tiêu chí gọi giặc bằng ngài, gọi người yêu nước bằng nghịch, nghĩa cử quật khởi là làm loạn:
“Nay Lê Thuyết, trốn tránh ở rừng gập ghềnh, một thân tuy nhỏ, mà coi đất trời như còn hẹp; Nguyễn Văn Tường thì đã bị đi đày; tức là trời trừ kẻ tật ác […]. Không ngờ bọn ngươi [tức là các sĩ phu, nhân dân – ct.] theo ý làm liều, […] kháng cự mệnh lệnh Triều đình, cam tâm hết lòng trung với kẻ thù [tức là Hàm Nghi, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, nhưng theo mạch văn, thì chỉ nhắm đến hai phụ chính – ct.], từ Hải Vân trở vào nam, không chỗ nào là không loạn [khởi nghĩa – ct.], rất đáng quái lạ; sao không xem châu Hoan, châu Diễn, Quảng Bình, Quảng Trị, mượn tiếng là xướng nghĩa, cần vương, đều đem thân bón cho đồng cỏ, mười nhà thì chín nhà hết sạch; còn những kẻ lọt lưới, thì bị mưa độc, khí núi…” [68].
Những cứ liệu trên, nhất là lòng trung thành của sĩ phu và nhân dân trong phong trào Cần vương đối với Nguyễn Văn Tường, đã khẳng quyết không hề có Dụ Cần vương số 2 bao giờ [69]!
Đúng như nhận định của De Champeaux, uy tín, tầm ảnh hưởng của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến là rất lớn. Thảo nào chúng tìm cách li gián, khích tướng, mưu toan lợi dụng, và vì không lợi dụng được, chúng lại bôi nhọ đến thế, thậm chí còn bịa tạc ra cái được gọi là “Dụ Cần vương số 2”! Đối với chúng ta, hai bản kết án chung thẩm của De Courcy, De Champeaux, của Đồng Khánh, Triều đình tay sai, bù nhìn, chính là lời tổng kết trọn vẹn những cuộc đời đấu tranh kiên cường mà linh hoạt, của Nguyễn Văn Tường và của nhóm chủ chiến trong sự nghiệp chung của bao sĩ phu, của nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược, gồm cả hai tháng và sau đó, từ sau ngày Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23. 5 Ất dậu, 1885).

3.d. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP NHẤT QUÁN, LIÊN TỤC CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG NGAY TRONG NHỮNG NGÀY THÁNG BỊ LƯU ĐÀY Ở CÔN ĐẢO, TAHITI, QUA BÀI VIẾT CỦA H. LE MARCHANT DE TRIGON.

Cũng rõ ràng Nguyễn Văn Tường, suốt cả quãng đời đấu tranh với thực dân Pháp, từ đầu đến lúc trút hơi thở cuối cùng ở Papeete, thủ phủ xứ đảo Tahiti, nơi chốn lưu đày các nhà chính trị chống Pháp, ông luôn sôi sục một mối căm thù sâu sắc đối với bọn thực dân cướp nước mình. Chính kẻ đứng ở phía đối phương, H. Le Marchant de Trigon, thanh tra chính trị và hành chính An Nam, người Pháp, đã viết [60]:
“Than ôi, ngay ngày hôm sau [tức là ngày kế tiếp ngày 29.8.1875 – chúng tôi căn cứ vào bài viết để chua rõ (:TXA. ct.)], những thủ đoạn phá rối có hệ thống của Nguyễn Văn Tường (12) kéo dài cho đến ngày chiếm cảng Thuận An [8.1883 – ct.], và còn về sau này, cho đến khi đày kẻ thù không đội trời chung của chúng ta, và trong thời gian [bị lưu đày – ct.] đó, [Nguyễn Văn Tường – ct.] chẳng chịu hiểu biết gì cũng chẳng chịu quên gì”.
Kẻ thù đã viết như thế về Nguyễn Văn Tường (Kì Vĩ bá), gọi quá trình đấu tranh chống Pháp trên mặt trận chính trị, ngoại giao của ông một cách khiếm nhã như vậy: “những thủ đoạn phá rối có hệ thống”! Thực ra, đó là một quá trình đấu tranh cam go đầy mưu trí, liên tục, nhất quán, kiên định, bền bỉ suốt mấy chục năm trời làm quan. Và quả thật, ông là “kẻ thù không đội trời chung” của thực dân Pháp cho đến lúc bị đày, bị chết. Làm sao chúng mua chuộc được ông, khiến ông bùi tai quên đi mối căm thù giặc Pháp canh cánh trong lòng và nỗi đau đáu tìm cách cứu nước, cứu dân, quét sạch bọn chúng, ngay trong thời gian bị đày, ngay trong phút cuối cùng của đời mình, ngày 30.7.1886!
Đó chính là cơ sở lịch sử của điều Nguyễn Văn Tường muốn gửi lại nghìn sau trong bốn chữ: “nhất dạng” và “u trung”:

“Đường núi vạn trùng lo kiệu biếc
Lòng tôi một dạng giữ sân son
Đúng? sai? Ấy gửi nghìn thu luận
Theo nước – phò vua, đâu nặng hơn?”

“Lòng trung sâu kín, sau ai tỏ ?
Tổ quốc, vua, dân, đâu nặng hơn?” [71]

Bốn chữ “nhất dạng”, “u trung” đã được bảo chứng bằng sự thật lịch sử!

4) SỰ DỰNG ĐỨNG CHUYỆN BỊA, XUYÊN TẠC SỰ THỰC LỊCH SỬ, NHẰM MỤC ĐÍCH TRIỆT HẠ UY TÍN CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG VÀ NHÓM CHỦ CHIẾN, ĐÓ LÀ THỦ ĐOẠN TUYÊN TRUYỀN CỦA THỰC DÂN PHÁP, BỌN TẢ ĐẠO TRONG THIÊN CHÚA GIÁO.
PHÊ PHÁN CÁC TƯ LIỆU: LẬP TRƯỜNG, QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ; LƯỢNG THÔNG TIN.
KẾT LUẬN VỀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG.

“Tổ quốc, vua, dân, đâu nặng hơn?”. Lòng trung của Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến Triều đình Huế – kiên quyết chống giặc và bọn phản quốc – đã làm sáng chói chữ trung chân chính, rất cổ điển và rất truyền thống.
Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến yêu nước Triều đình Huế đã chọn lựa đúng trong bi kịch ở đỉnh điểm mâu thuẫn đối kháng phản quốc – ái quốc, 1883. Hai năm sau, ở điểm đỉnh tột độ của mâu thuẫn đối kháng địch – ta dữ dội hơn, họ cũng đã trả lời đúng câu hỏi: “xã tắc, quân, dân, thục trọng khinh?”, trong sự phân công cho đêm Kinh Đô Quật Khởi và trong việc giao nhiệm vụ sau đêm lịch sử 22 – 23.5 Ất dậu (chỉ từ 05.7.1885 đến 06.9.1885! Tiếc thay!).
Người nông cạn hoặc cam tâm cầu “hòa”, thực chất là bán nước cầu “vinh” (!), chí ít là cầu an, cứ mãi lừa mình dối người, cho rằng Nguyễn Văn Tường “tham lam”, “tàn nhẫn”, “quỷ quyệt”, Tôn Thất Thuyết “ít học”, “hèn nhát”, “hiếu sát” và cũng “tham lam”, “quỷ quyệt”, Phạm Thận Duật “đào ngũ” (“bỏ cuộc”)… Những kẻ nông cạn, cầu “hoà” (!) đó, vô tình hoặc chủ ý rơi vào luận điệu tuyên truyền vừa mị dân, vừa độc ác: “đập tan tành” uy tín của những trung thần sáng suốt, hết lòng vì nước, vì dân và vì triều Nguyễn; và trước mắt thuở bấy giờ là “đập tan tành” quốc kế “chia tách triều chính” nhưng vẫn “nhất dạng” của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, nhằm dập tắt phong trào Cần vương (13) (xin xem lại: chú thích (11)).
Nguyễn Văn Tường dũng cảm, mưu trí và nhận một kết quả bi đát, đậm tính hi sinh cao cả hơn Tôn Thất Thuyết nhiều lần. Nguyễn Văn Tường còn là một Nguyễn Trãi, tuy bi kịch mỗi người một khác – không có quan hệ yêu đương gì với Học phi (bà được phong hoàng thái phi như mẹ ruột của Hiệp Hòa, vì Hiệp Hòa đã tạo ra tiền lệ).
Tư liệu được viết bởi thực dân, tay sai (15), bởi những người bị bó buộc bằng xiềng xích bảo hoàng, kể cả những người yêu nước thiển cận, vì thiển cận mà sa vào âm mưu li gián (âm mưu li gián cả sau ngày 23.5 Ất dậu,1885) của Pháp, của các tên thực dân đội lốt giám mục, linh mục, cần được đọc một cách tỉnh táo với sự phân tích, đãi lọc khoa học. Chỉ trong việc phế lập từ 1883 đến 1884, cũng đã lắm vấn đề!
Tuy nhiên, cuối cùng, sự thật lịch sử đã được sáng tỏ, kể cả chữ trung trong quan hệ đồng chí.
Sự thật lịch sử đã sáng tỏ, ít ra là từ dưới triều vua Thành Thái, có điều, có lắm người không có điều kiện nhìn thẳng vào sự thật lịch sử, vào chân dung cao đẹp, anh hùng bi tráng đích thực của Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến, mặc dù chỉ là những chân dung chưa tỏa sáng hết độ sáng, bởi bộ sử, dẫu là tín sử, vẫn bị nhuộm màu sắc bảo hoàng (tập 27 – tập 36), rồi màu sắc phản quốc, với cách đánh giá ngược (tập 37 – tập 38)! Đại Nam thực lục, chính biên kỉ đệ tứ (1847 – 1883) và kỉ đệ ngũ (1883 – 06.9.1885) phải cất vào kho sử và phát hành hạn chế, trong khi đó, kỉ đệ lục (06.9.1885 – 1888) lại bị truyền bá khắp cả nước, dùng để giảng dạy trong nhà trường thực dân nửa phong kiến **!
Hiện nay, các nhà nghiên cứu sử học đã tiếp cận được nhiều nguồn tư liệu, từ tư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn, tư liệu của thực dân, tay sai, gián điệp đội lốt cố đạo Thiên Chúa giáo (gồm cả tư liệu trước đây chưa công bố) (15), đến tư liệu của những người khác chính kiến, khác bối cảnh, khác lực lượng ở những năm cuối thế kỷ XIX, dăm năm đầu thế kỷ XX, và cả sách vở suy diễn, xuyên tạc sau đó (gồm cả thiển cận, ngộ nhậân). Trong đó, Đại Nam thực lục, chính biên (IV, V, VI) và Châu bản là tư liệu căn bản, quan trọng nhất và đáng tin cậy nhất, mặc dù quan điểm chép sử của Quốc sử quán triều Nguyễn từ chỗ yêu nước, chống Pháp, chống tả đạo, cố nhiên vẫn bảo hoàng, ít nhiều ngu trung (hai kỉ đệ tứ, đệ ngũ), đã đi đến chấp nhận tiêu chí đánh giá ngược, gọi giặc xâm lược bằng ngài, gọi nghĩa sĩ là giặc; chống người yêu nước chân chính (kỉ đệ lục).
Như vậy, từ nhiều nguồn tư liệu, với sự xác định tư liệu chuẩn cứ, với sự xới lật, đãi lọc các tư liệu khác, dưới ánh sáng khoa học cách mạng, tiên tiến, dân tộc và hiện đại (mà quan điểm duy vật, lịch sử – cụ thể là then chốt), chúng ta đều có thể đi đến một kết luận nhất trí về trọn cuộc đời hoạt động của Nguyễn Văn Tường. Nguyễn Văn Tường, một nhân cách chói sáng, một nhà hoạch định chiến lược, chiến thuật, một nhà chính trị, ngoại giao tài giỏi, giàu mưu trí, một chiến sĩ ở vị trí lãnh đạo cao, đích thực có phẩm chất anh hùng, biết chiến đấu và biết hi sinh một cách dũng cảm. Đó không phải là lời khẳng định suông rỗng, nếu chúng ta thật sự công tâm trong nghiên cứu, suy ngẫm.
Và có thể khẳng định bi kịch của Nguyễn Văn Tường là bởi sáu chữ: bình Tây, sát tả, trá hàng và bởi câu thơ “xã tắc, quân, dân, thục trọng khinh?”.
Hai câu đối kính viếng linh cữu Nguyễn Văn Tường đã thể hiện cảm nghĩ của người đương thời lúc bấy giờ về kế sách của một lãnh tụ đã nắm giữ vận mệnh Đất nước và đã bị giặc Pháp xâm lược lưu đày:

Quốc kế thị phi lân sử định
Thiên phương sinh tử nhạn thư điêu! [72]

Kế sách [cho] Đất nước, đúng [hay] sai,
[sẽ do] tín sử [sử có điềm con lân]
định luận
[Ở] phương trời, sống [hoặc ] chết, thư xa
[buộc vào chân nhạn cứ] vật vờ
[trong gió]

Kế nước đúng sai trang sử quyết
Phương trời sống chết cánh hồng chao!

Tất nhiên lịch sử đã ghi nhận. Và Nguyễn Văn Tường không chịu trách nhiệm sau khi ông đã bị lưu đày biệt xứ, từ ngày 06.9.1885, trước vận mệnh của Tổ quốc.
Mặt khác, Nguyễn Văn Tường còn là một nhà thơ. Ông không những có tài ngôn ngữ, trong các văn bản ngoại giao, chính trị, trong đấu tranh ở các cuộc hội nghị như vua Tự Đức đã gián tiếp khen ngợi khi so sánh với Nguyễn Tư Giản [73], Nguyễn Văn Tường còn là một nghệ sĩ của nghệ thuật ngôn từ, có nhiều câu, nhiều bài đạt đến mức tinh diệu (lời châu phê của vua Tự Đức ở Thi tập của ông).
Chiến đấu ở mặt trận với gươm đao súng đạn, đấu tranh trong thương thuyết ngoại giao và trên trường chính trị, cùng với việc làm thơ, tất cả chỉ là một, đều khởi từ trái tim yêu nước, thương dân, lòng căm thù giặc và bọn tay sai.

TRẦN
XUÂN AN


1. CHÚ THÍCH bài NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886) VỚI NHIỆM VỤ LỊCH SỬ SAU CUỘC KINH ĐÔ QUẬT KHỞI (05 THÁNG 7, 1885):

(1). “Giải triều…” còn có nghĩa là “Tan tác triều đình…”.
Bài thơ này đã được truyền tụng từ sau ngày Kinh Đô Quật Khởi (23.5 Ất dậu, 1885), như một mật lệnh phối hợp giữa phong trào Cần vương vũ trang và những người ở lại. Sau đó, bài thơ chỉ được ghi lại bốn câu cuối với bản dịch không rõ ý, bị xuyên tạc (xem Phan Trần Chúc, “Vua Hàm Nghi”, Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951; Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, tr. 83 – 84). Do bài thơ được truyền khẩu, nên có một vài chữ bị dị biệt ở các dị bản, nhưng ý nghĩa vẫn không thay đổi.
Vì “lí do chính trị” dưới chế độ thực dân, nhiều sách báo in lại, thường chỉ trích dịch bốn câu cuối.
Theo ông Nguyễn Xuân Quế (hậu duệ Nguyễn Văn Tường), cuối bài “Giải triều…”, có một câu chú thích thêm với hai chữ “Mạnh Tử”, ý muốn nhắc đến câu kinh điển của Nho giáo: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý, Đất nước là thứ nhì, nhà vua chỉ đáng xem nhẹ).
Bối cảnh lịch sử cũng là cơ sở cho việc mạo muội khảo dị, hiệu đính, nhằm xác định đúng bản gốc, nguyên tác của Nguyễn Văn Tường.
Sau đây là bản dịch nghĩa:
“Ba chục năm qua, uổng phí bao nhiêu sự từng trải!
Nửa đêm, gian tả [hoặc: vô cớ]! [Giặc Pháp] ép nỗi buồn
nẩy sinh
Cờ xổ ba màu [“tam tài”], sấm sét quyền biến
Kẹp-tra-khảo theo cặp roi, chó gà kinh sợ
Đường núi vạn trùng, lo lắng cho kiệu vua xanh biếc
[kín đáo]
Lòng kẻ bề tôi một dạng, thương-mến-không-nỡ-rời-bỏ
sân son
Đúng, sai, điều ấy, gửi nghìn thu sau [định luận]
Đất nước, nhà vua, đâu là trọng, là khinh?”.
[Vô đoan: có hai nghĩa:vô cớ, hoặc: không ngay thẳng; già: cái kẹp dùng để tra khảo; luyến: thương mến không nỡ rời bỏ].

(2). Tập tâu Nguyễn Văn Tường gửi Tam Cung ở Quảng Trị đã bị Pháp duyệt (viết niên hiệu Hàm Nghi nhưng đóng ấn quan phòng của Pháp). Đó chỉ là tập tâu đối phó. Chúng tôi xin nhấn mạnh: Do đó, nội dung chỉ có tính chất đối phó, trước hết và chỉ là đối phó với Pháp, nên dĩ nhiên là không hoàn toàn đúng với sự thật, không thể hiện hoàn toàn đúng tư tưởng, ý nghĩ Nguyễn Văn Tường trong mối quan hệ đồng sự, đồng chí với Tôn Thất Thuyết ở “cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay…” và những công việc sau đó. Nội dung như sau:
-+++ Nguyễn Văn Tường cho rằng Nguyễn Văn Tường đã bị Tôn Thất Thuyết lừa dối [1. Nguyễn Văn Tường không biết việc Tôn Thất Thuyết đánh úp; hoặc đúng hơn là: 2. Nguyễn Văn Tường không ngờ Tôn Thất Thuyết không chịu cho đưa Hàm Nghi về như kế hoạch đã bàn].
-+++ Tam Cung già cả, vua Hàm Nghi nhỏ tuổi, không đủ sức chịu đựng gian khổ ở chốn rừng sâu nước độc [nơi mà Nguyễn Văn Tường có gần 12 năm làm tri huyện, bang biện; chưa kể 5 năm tiễu phỉ ở núi rừng biên giới phía bắc, cũng chốn rừng sâu nước độc như thế].
-+++ Hơn nữa, không thể giao cho Pháp và côn đồ kinh thành, lương miếu [chúng có thể tôn lập lên bất kì tên vua bù nhìn nào].
-+++ Do đó, Nguyễn Văn Tường phải tuân theo sắc văn (ý chỉ) của vua, của Tam Cung mà ở lại Huế để lo việc giảng “hòa”, để cứu vãn tình thế và ngăn chặn sự cướp phá, tàn sát ở kinh thành; bởi lẽ khác, Nguyễn Văn Tường tự nguyện cùng với non sông xã tắc mà mất còn, không dám lìa bỏ [Tôn Thất Thuyết sẽ sang Trung Hoa].
Chúng tôi mạn phép làm rõ nghĩa hơn bằng các chữ trong dấu móc vuông: [ ]. Xin xem nguyên văn: ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 224 – 225.
Xem thêm: TS. Cao Huy Thuần, “Các giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1957 – 1914)” (Les missionnaires et la politique colonial française au Viet Nam, 1857 – 1914), Nguyên Thuận dịch, Nxb. Hà Nội, 2003, tr. 398, 452:
Qua một số tư liệu lưu trữ chưa công bố trước đó, TS. Cao Huy Thuần phân tích sự khác biệt chủ trương giữa Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết so với phe chủ “hoà”. Sự thật lịch sử đó đã bị Cao Huy Thuần diễn đạt theo cách của ông ta như sau:
“Sự xâu xé, chia rẽ của triều đình Huế từ khi vua Tự Đức mất, đã làm dễ dàng cho sự thành công của Pháp. Vì tham vọng cá nhân, một số quan lại tính đến chuyện hợp tác với người Pháp: chẳng hạn Nguyễn Trọng Hợp, một trong ba quan nhiếp chánh [:phụ chánh Trần Tiễn Thành – TXA. ct.] thời kì không vua [chưa lập vua nối ngôi – ct.] hay Nguyễn Hữu Độ [ở Bắc kì – ct.]. Hai quan nhiếp chánh [:phụ chánh – ct.] khác, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, lại chủ trương kháng chiến, nhưng cả hai đều lo bảo tồn quyền bính [:quyền lực để thực thi đường lối chủ chiến, “thế cỡi trên lưng hổ” – ct.]…” (tr. 398).
“… Với sự độc lập tương đối mà Trung kì được hưởng, họ sẽ dễ đuổi người Pháp ra khỏi Bắc kì, nếu người Pháp chỉ thiết lập chế độ bảo hộ ở đó, hơn là nếu họ tự giao trọn quyền sở hữu cho Pháp [làm thuộc địa, như Nam kì – TXA. ct.]” (tr. 452).
Cao Huy Thuần chú thích cho câu trên: “[Căn cứ vào: – ct.] Lanessan, thư riêng và mật, gởi bộ trưởng Hải quân, 26/9/1894, Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại, A 30 (101), hộp 21, theo ý chúng tôi [:Cao Huy Thuần – TXA. ct.], rất có thể rằng quan phụ chánh Nguyễn Văn Tường có ý bảo tồn Trung kì để sau này cố lấy lại Bắc kì nhờ vài sự giúp đỡ của Trung Quốc; nhưng có đủ lí lẽ để tin rằng mẹ của vua Tự Đức [thái hoàng thái hậu Từ Dũ – ct.], khi đề nghị như thế với Harmand, [lúc kí “hoà” ước Quý mùi 1883 – ct.] chỉ nghĩ đến việc bảo vệ an ninh cho nhà Nguyễn” (tr. 452).
Ở đây, như trên đã nói, chúng tôi (TXA.) trích dẫn từ cuốn sách của TS. Cao Huy Thuần chỉ nhằm chứng minh sự khác biệt chủ trương chính trị giữa Nguyễn Văn Tường (chủ chiến) với Từ Dũ (phe chủ “hoà”), chưa kịp đánh giá sự phân tích và cách diễn đạt của Cao Huy Thuần theo lập trường của ông ta.

(3). Về tư liệu A. Delvaux sử dụng trong bài viết (1916):
“Lịch sử sơ lược mà tôi kể ra đây về cái nhà [Tòa Khâm ở Huế – TXA. ct.] và những người đã chiếm cứ ngôi nhà ấy [các khâm sứ thực dân Pháp – ct.], hầu như độc nhất đầu tiên là dựa trên các tài liệu chính thức của Nhà nước [Chính phủ Pháp và chính quyền “bảo hộ” – ct.], được bổ sung bằng những kỉ niệm của đức giám mục Caspar, là nhân chứng sành sỏi và nhiều khi còn là diễn viên quan trọng của những sự cố đã xảy ra thời kì ấy tại Huế”.
Trích: Delvaux, bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên…”, NNBCĐH. (BAVH., 1916), tập 3, nhiều người dịch, Nxb. Thuận Hoá, 1998, tr. 29.
Delvaux còn viết thêm các bài:
-+++ Pháp đánh chiếm Huế (NNBCĐH., [BAVH., 1920], tập VII, Bửu Ý, Phan Xưng dịch, Nxb. TH., 2001, tr. 338 – 375). Đây là một bài viết không chủ yếu căn cứ vào tư liệu gốc (văn bản, văn kiện chính thức) của Pháp, mặc dù có phụ chú (như bút phẩm của Silvestre …), mà lại dựa vào vè Thất thủ kinh đô với thủ thuật xuyên tạc phi lí và trắng trợn bài vè ấy (Nguyễn Văn Tường lại câu kết với Nguyễn Hữu Độ!!! [*]), và dựa vào cái gọi là ý nghĩ quần chúng do cố đạo Henry de Pirey bịa tạc ra, hoặc do tuyên truyền của các tên linh mục thực chất là thực dân này trong quần chúng giáo dân mà lan truyền thành dư luận (H. de Pirey, bài “Một thủ đô phù du: Tân Sở”, NNBCĐH. [BAVH., 1914], tập I, Đặng Như Tùng dịch, Bửu Ý hiệu đính, Nxb. TH., 1997, tr. 224 – 234). Ý đồ của Delvaux ở bài viết lộ rõ: a) Một người sáng suốt như Nguyễn Văn Tường không thể cùng quan điểm “sát tả” như Tôn Thất Thuyết, người bị chúng cho là nóng nảy, võ biền; bởi lẽ chúng không thể bôi nhọ Nguyễn Văn Tường là “ít học” được! ; b) Một người đã “bình Tây sát tả” như Nguyễn Văn Tường, trước đó chúng đã xác quyết như thế, thì không thể là người yêu nước thương dân được, mà phải bôi nhọ ông là người vừa chống Pháp, vừa phản dân hại nước; bởi lẽ chúng buộc phải nói ngược rằng, giáo dân theo Pháp, chịu Pháp “bảo hộ” mới là yêu nước thật sự (sic!)! Ở bài viết này, Delvaux tỏ ra thiếu trung thực hơn bài viết vào năm 1916 (bđd., sđd.).
-+++ Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam (NNBCĐH. [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, Nxb. TH., 2002, tr. 478 – 485). Đây là một bài viết có nhiều điểm xuyên tạc. Chúng tôi đã làm rõ ở phần chính của bài nghiên cứu của chúng tôi. Tuy vậy, trong bài viết này, Delvaux đã dẫn nguyên văn đoạn trích từ Công báo thuộc địa Tahiti, ra ngày 05.8.1886, tr. 202; giấy khai tử trích sao từ sổ hộ tịch của xã Papeete, số 60, ngày 30.7.1886; quyết định cho phép di chuyển thi hài Nguyễn Văn Tường về An Nam, kí ngày 09.12.1886 (quyết định đã đăng trên Công báo thuộc địa Tahiti cùng ngày); ngoài ra, còn có tên con tàu là Le Bourayne, tên chỉ huy tàu là Willemsens; đặc biệt là ảnh chụp Nguyễn Văn Tường lúc chết… Bài báo này, Delvaux viết một cách thù hận về cái chết của cựu phụ chính An Nam Nguyễn Văn Tường! (Sao linh mục hận thù dai dẳng đến vậy, nhất là với một người đã chết!). Dẫu sao, các văn bản hành chính trên cũng đã phủ chính một số điều đơm đặt chính Delvaux đăng lên tạp chí BAVH., 1920 (như Thành Thái ra lệnh quất xích sắt lên quan tài Nguyễn Văn Tường khi tàu thủy mới về đến An Nam!!! 1887, Thành Thái đâu đã lên ngôi! Về sau, Thành Thái đã chứng tỏ ông không phải là một con người tầm thường như thế!).
-+++ Đôi điều xác minh về một thời kỳ biến động của lịch sử An Nam (BAVH., 1941, tr. 215 – 314, chưa xuất bản bản dịch).
[*] Xem thêm: L. Sogny, “Các gia đình thế gia vọng tộc ở nước Nam: ngài Nguyễn Hữu Độ”, NNBCĐH. [BAVH., 1924], sđđ., tr. 262 – 264 … Đây là bài viết ca ngợi tên tay sai, bán nước Nguyễn Hữu Độ một cách trắng trợn!

(4). Đồng chí: một danh từ chỉ những người cùng chí hướng nửa sau thế kỉ XIX: trung quân, ái quốc, chủ chiến, chống Pháp (“bình Tây sát tả”), chống bọn giặc Cờ quấy rối và mưu toan bành trướng của nhà Thanh Trung Hoa, chưa phải là khái niệm “đồng chí” theo lí tưởng cộng sản chủ nghĩa hiện đại.

(5). Xem thêm: ĐNTL.CB., tập 32, Nxb. KHXH., 1975, tr. 355 – 356. Đây là phương thức “không biết gì”:
“… Bỗng được tin báo […] quân ta đánh mạnh vào thành, An Nghiệp [Françis Garnier – TXA. ct] và 1 viên quan một, 1 viên quan hai đều bị giết chết, bọn Hoắc Đạo Sinh [Philastre – ct.] và quan trên tàu thuyền ấy đều đập tay tức giận, bảo Văn Tường rằng: “Việc không xong được, phải báo ngay cho tướng [Dupré – ct.] ấy không nên ở lâu”. Văn Tường thấy chúng khí giận đương bốc lên, sợ lỡ việc lớn, mới thong thả nói rằng: “Việc ở Hà Nội, tướng của quý quốc bảo không phải là bản ý, mà lấy sức quân 4 tỉnh, nước tôi cũng không cùng tranh, thế là hai bên đều không trái. An Nghiệp chết, hoặc bởi bọn cướp khác, hoặc bởi sĩ dân nổi giận, việc chưa rõ ràng, căn cứ vào đâu mà vội báo, huống chi trả lại thành để sớm định điều ước, là lệnh của quý tướng; lấy lại thành rồi sau mới nghị hòa ước là mệnh lệnh của vua nước tôi; bọn chúng ta chỉ biết theo mệnh lệnh ấy. Còn như Hà Nội giết An Nghiệp cũng như An Nghiệp giết Nguyễn Tri Phương, đó là đều do sự không ngờ, cũng không phải là bọn chúng ta làm ra. Nay chưa từng thân đến chỗ ấy, biết được việc ấy, mà chỉ nghe tin báo không đâu, chẳng những quý tướng tính [ở nơi – ct.] xa không thể được, mà bọn chúng ta đi lần này thật có phụ. Sao bằng đưa thư ngay cho Hà Nội lập tức phái tàu thuỷ nhỏ đến, cho tiện đi đến nơi; nếu được theo mệnh lệnh trước hội bàn, rất tốt, hoặc được rõ duyên do An Nghiệp bị chết, rồi sau sẽ báo, há chẳng ổn hơn ư?”. Hoắc Đạo Sinh và quan ở tàu ấy nghe theo […]. Văn Tường lại bảo rằng: “Tàu của quý quốc đã tiến vào lại vội ra, sĩ dân nghe thấy, tất bắt chước việc Hà Nội đã làm, thì ai ngăn cấm được; sợ sau này lại hại lắm, thì trả lời tướng của quý quốc ra sao? Nay nên cho tàu Đề Ta Di [Decrès – ct.] ra biển, đón chặn giặc biển, còn tàu vẫn đi trước nên chạy tiến đến Hải Phòng, bọn ta đến ngay Hải Dương, trước giao trả thành ấy, hiểu thị niêm yết cho sĩ dân biết, để tỏ ra thực thà và hòa thuận, rồi sau tiến đến Hà Nội, giao trả hết các thành và hỏi duyên do về việc An Nghiệp, báo cả một thể, mới là kế hoàn toàn”. Hoắc Đạo Sinh thuận nghe…”.

(6). Xem Y. Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 64 – 83. Cũng ở sđd., tr. 82, Tsuboi trích dẫn một đoạn văn của chính Puginier (qua E. Louvet, Cuộc đời giám mục Puginier, Hà Nội, 1894, tr. 397): “Nếu không có thừa sai và giáo dân, thì người Pháp khác nào như những con cua đã bị bẻ hết càng. Ví dụ như vậy tuy mộc mạc song không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thực thế, nếu không có thừa sai và giáo dân, người Pháp sẽ chỉ có địch thủ bao vây; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức sai nhầm đưa tới với ác ý, làm bại hoại tình thế của họ: như vậy họ sẽ bị đẩy vào cái thế không hoạt động được gì rồi nhanh chóng phải hứng chịu những thảm họa thực sự. Họ sẽ không giữ nổi vị trí nơi đây, và sẽ bị buộc phải rời bỏ xứ này”…

(7). Thủ đoạn của Pháp là bao vây, cô lập nước ta về ngoại giao. Tháng 8 âl., 1881, Rheinart nói rõ, đại ý: “… Nước ấy [nước Pháp – TXA. ct.] không lấn quyền nước ta, chỉ bắt ta không được giao thiệp với nước khác thôi. Ta nếu không nghe, nước ấy cũng bắt làm cho được” (ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH., 1975, tr. 59). Cơ mật viện – Thương bạc nhận định: “… Nước ấy đã mưu, không phải một ngày. […] … Ngăn ngừa ta giao thông với nước ngoài, là chỗ giảo quyệt của nước ấy. Duy trong ước có một điều “nước ta muốn định thương ước với nước nào đều được tuỳ tiện” thì nước ấy đâu có thể trái lời ước được. Nhưng ta từ trước đến giờ chưa giao thông với các nước, mà nước ấy không khỏi giữ ngầm ở trong, nên 6, 7 năm nay, các nước chưa nước nào đến định thương ước với nước ta. Gần đây ta cùng với nước Y Pha Nho định ước, giao ước với nhau đã lâu, mà nước ấy [nước Y Pha Nho – ct.] cũng chưa có đến, thì tình có đáng ngờ, cũng là tình của ta chưa thông với các nước, cho nên nước ấy [nước Pháp – ct.] mưu làm tự chuyên. Vả lại giao thiệp với nước ngoài thực khó, ta chỉ sợ khích nước ấy, lòng mưu tính ta, vì đó lại phát ra. Nay mưu nước ấy sắp thành, ta há nên không giải quyết sớm, huống chi ta cũng cứ lý mà làm, làm sáng cho chúng biết, có trái ước gì đâu, mà chúng vin cớ để nói được… […]. Nhưng tự trước đến giờ thường bị nước ấy ngăn trở, vì ta không có tàu, chỉ đáp tàu với nước ấy, tùy theo nước ấy đi hay đứng mà phải thế. Nay xin sửa soạn tàu của ta, chọn người ở triều đình có lòng đảm đương công việc lấy hai, ba người, lấy cớ đi tìm học về bác vật, như nước Thanh cho người đi học các nước, tư rõ trước cho nước ấy biết. Đến lúc đi thì đến nước ấy trước, nhân chuyển đi các nước Y, Anh, Phổ, Mỹ, khiến cho các nước biết ta tự chủ, nhân đó mà thông suốt tình ý. Tục Thái Tây thích giao thiệp chơi bời với nước xa, ta đến, tự khắc không nước nào không nhận, tưởng cũng có nước muốn giao thiệp thông thương với nước ta, thực khiến cho tình của nước ta thông suốt các nước, thì nước ấy không thể tự ý làm càn được. Nếâu nước ấy có lòng nào bắt ức ta, ta cũng có thể cùng các nước điều đình giúp bàn lại, tưởng cũng là một kế đấy… […]. Lại việc này còn xa, nay gần mà có thể giao thông được thì ở Yên kinh, sứ các nước đều ở đấy, nhiều lần sứ bộ ta sang Yên kinh chưa biết bàn đến việc ấy, vì sự thể giao tế khác nhau, cho nên khó làm. Nay có Cục Chiêu thương chở hàng thuê, do quan ở Cục ấy giới thiệu, tưởng cũng là một cơ hội. Gần đây tiếp được tin báo Đường Đình Canh tháng này cũng đến, xin do bọn tôi thương thuyết, nhờ viên ấy ngỏ ý với Lý Hồng Chương nhờ mật dò ý sứ các nước Anh, Mỹ, Phổ, để nắm được cốt yếu, thông thuyết giúp cho. Còn sứ Y Pha Nho ở đấy, nước ấy đã định ước với ta, thì nên bàn với họ. Nước Thanh gần đây tranh nước Lưu Cầu với nước Nhật Bản mà không được [vì có sự can thiệp của tổng thống Mỹ Grant – ct.], nay nước ấy [nước Thanh – ct.] […] tưởng cùng nòi giống [da vàng – ct.] với ta cũng lo [lo âu về các nước thực dân da trắng – ct.], tất hết lòng mưu thực mà việc chóng xong …” (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 59 – 62).
Tháng 12 âl., cuối năm 1881 bước sang 1882, “vua cho là quan nước Thanh vào yết kiến, sợ sinh ngờ. Bèn cho Nguyễn Văn Tường bàn kín với Đường Đình Canh. […]… Văn Tường mật dặn Đường Đình Canh 3 việc:
-+++ … Nước ta đặt quan đón đón chờ ở kinh đô nước Thanh, nếu có việc gì, được tố cáo ở Tổng lý nha môn.
-+++ Ở Quảng Đông, hiện nghe lãnh sự các nước phần nhiều đóng ở đấy […]… Nước ta đặt 1 lãnh sự ở đấy để tiện đi lại buôn bán, thông báo tin tức, nhân cùng giao du với các nước để thông hiểu tình ý.
-+++ Nước ta muốn phái người đi khắp các nước như các nước Anh, Nga, Phổ, Pháp, Mỹ, Áo, Nhật Bản, xem xét và học… […].
… Lại đều đem đồ vật gửi tặng […]… Tổng đốc họ Trương [Trương Thụ Thanh – ct.] […] đem đồ vật ấy trả lại, nói rằng nhận sợ nước Pháp ngờ, có việc khó giảng thuyết, tổng đốc họ Lý [Lý Hồng Chương – ct.] cũng lấy thơ và tờ khải đưa cho để tỏ tình cùng khuyên về ý đều phải tự cường” (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 90 – 91).
Tháng 6 âl., 1883, Tự Đức mất. Đến khi Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết thực sự lãnh đạo Đất nước, Triều đình Huế thực hiện chủ trương ngoại giao đối trọng, trung lập giữa hai nước Pháp, Hoa, vì cả hai nước này đều mưu toan xâm lược và chia nhau Bắc kì! Đó là chiến thuật tọa sơn quan song hổ đấu (ngồi trên núi xem hai con cọp xâu xé nhau), chờ cơ hội giành lại quyền tự chủ cho Đất nước.
Nhưng, tiếc thay, 14.8 âl., 1884, Lý Hồng Chương – Fournier kí tạm ước Thiên Tân, buộc Đại Nam phải chấp nhận cưỡng ước Patenôtre! Nước Nga lại đứng ra điều đình để Pháp – Hoa chính thức kí hiệp ước Thiên Tân (Patenôtre – Lý Hồng Chương), vào ngày 27.4 Ất dậu (1885) (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 127 và tr. 174)! [Theo “Việt Nam sử lược”, khởi đầu việc môi giới cho tạm ước Fournier là do một người Đức, tên Détring (sđd., b. 1964, tr. 539 – 540)].

(8). Điểm này chúng tôi thấy cần nói rõ thêm: các tên đội lốt linh mục, giám mục, một mặt, thổi phồng con số, mặt khác, quy tất cả bọn Việt gian theo Pháp vào nhãn hiệu “giáo dân”, đồng thời tôn các tên xâm lược Pháp là “sứ giả của Thiên Chúa”! Do đó, “bình Tây sát tả”, khẩu hiệu ấy được hiểu là đánh dẹp giặc Pháp xâm lược và tiêu diệt bọn “giáo dân” với nghĩa trên và với nghĩa chối bỏ truyền thống dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam của chúng ta.
Về từ “giáo dân” được Quốc sử quán sử dụng trong phần viết về cuộc Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23.5 âl., 1885) và hai tháng sau đó: Đó là lực lượng giáo dân do thực dân Pháp vũ trang súng đạn; đó là bọn lính ma tà (“giáo dân vô lại”…). Xin phân biệt với bộ phận giáo dân lương thiện, không theo “tả đạo”, thực dân (xem thêm: GS. Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó… , Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 368 – 371).
Mặc dù vè “Thất thủ kinh đô” không phải là tư liệu gốc, chỉ là một tác phẩm dân gian hư cấu với nhiều sai lệch đáng kể, chúng tôi cũng trích một vài đoạn, chỉ để tham khảo thêm:

“Đô thành, quan Quận giao hòa
Lựa chiều hơn thiệt nói mà với Tây
Tây phiên ngẫm vẫn giận thay:
“Đem lòng cự chiến, còn đến đây làm gì?

May mà Nam Việt buổi bại suy
Tây mà bại, Đạo phen ni, cũng không còn
Người mà phiêu lạc núi non
Bao nhiêu nhà cửa chẳng còn gì đâu
Tây phiên thúc thủ thụ đầu
Hàng lai Nam Việt, mảnh âu chẳng lành
Tây phiên trở lại Tây thành
Ở đây xấu tiếng bia [bêu?] danh đã rồi
Họ không cho đâm nhánh mọc chồi
Trăm dao xẻo thịt thả trôi giang hà”
Quan Quận khi ấy nói qua
Nói cùng Đại Pháp chư nha phiên trào:
“…”
Quan một cho đến quan ba
Quan năm quan sáu vậy mà cũng nghe!
Đòi triệu các quan tỉnh trở về
Sự tình y ước cho ra bề đục trong
Tin thì tin, dạ còn phòng
Nam triều tể tướng nó đem lòng phục binh…”.

Vẫn là vấn đề “bình Tây sát tả”; “Bắc Việt bị “bảo hộ”” và “Nam Việt [Trung kì] thuộc Nam triều”!
Chúng vẫn sợ Nam triều tể tướng Nguyễn Văn Tường làm nội công cho Tôn Thất Thuyết.
(Ở cuốn “Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng”, chúng tôi đã có dịp bước đầu phân tích vè “Thất thủ kinh đô” với một vài nét nhấn then chốt).
Về Giáo hội Thiên Chúa giáo Vatican và Hội Truyền giáo Paris tại hải ngoại, ngoài ba cuốn sách của Trần Tam Tỉnh, Trần Văn Giàu và Yoshiharu Tsuboi mà chúng tôi có tham khảo, xin xem thêm: TS. Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973; vừa được Nxb. Tôn Giáo tại Hà Nội xuất bản với bản dịch mới của Nguyên Thuận (vào tháng 02.2003), với sự thay đổi nhan đề: “Các giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1957 – 1914)” (Les missionnaires et la politique colonial française au Viet Nam, 1857 – 1914) [!?!].
Nhân tiện, xin mở một ngoặc đơn ở đây:
1. +++ Cao Huy Thuần đã chứng minh đúng vai trò xâm lược của Giáo hội Thiên Chúa giáo Vatican (Rome); các giáo hoàng Nicolas V với giáo chỉ năm 1454, Calixte III với giáo chỉ 13.3.1456, Alexandre VI với giáo chỉ Inter Caetera 04.5.1593, đã chủ động câu kết với các thế lực thực dân như Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha… [sđd., tr. 11]; và vai trò xâm lược trực tiếp trong lốt cố đạo của các giáo sĩ từ các nước thực dân ấy.
Đối chiếu tư liệu: Machiavel, Quân vương (Le Prince), Phan Huy Chiêm dịch, Nxb. Quảng Hoá, 1968, tr. 48 – 53; Trần Tam Tỉnh (linh mục, giáo sư, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Canada), Thập giá và lưỡi gươm (Dieu et Céçar, [dịch thoát]), Vương Đình Bích (linh mục) dịch, Nxb. Trẻ, 1988, tr. 14 – 15. Theo Machiavel, cha đẻ của Céçar Borgia là giáo hoàng Alexandre VI.
2. +++ Cuốn sách của Cao Huy Thuần ở chương có đề cập đến các nhân vật lịch sử Việt Nam dưới thời Tự Đức (chúng tôi chỉ giới hạn trong khoảng thời gian 1873 – 1874; sđd., tr. 253 – 326), có một số điểm cần bàn. Đó là sự mập mờ, lệch lạc, đánh tráo, xuyên tạc không thể không chỉ ra và phê phán để tránh những ngộ nhận lịch sử đáng tiếc. Cao Huy Thuần không phân biệt khuynh hướng chủ “hoà” (đầu hàng) với biện pháp “hoà là cơ nghi” (“chiến rồi mới có thể hoà, hoà để thủ, thủ để mưu chiến”). Cao Huy Thuần muốn che giấu cho Trần Tiễn Thành!
3. +++ Cao Huy Thuần chỉ sử dụng tư liệu của Pháp (trong đó có tư liệu ở các kho lưu trữ của Bộ Hải Ngoại và Thuộc địa Pháp) một cách không đầy đủ, lại thiếu sự đối chiếu với tư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn…

(9). Chúng tôi xin chốt lại và nhấn mạnh điểm này: Có điều, sử học vẫn phải phân tách rõ “hư chiêu” và “thực chiêu”: a). căn cứ vào ba mươi năm làm quan, một niềm trung quân ái quốc và kiên định lập trường chống Pháp; b). căn cứ vào hai tháng sau ngày 23.5 Ất dậu, 1885 với hai mật dụ Hàm Nghi từ Tân Sở gửi về và tinh thần đấu tranh khẳng khái, không chịu khuất phục của Nguyễn Văn Tường [gồm cả ý định lập Đồng Khánh bởi không còn ai trong diện có thể, ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 23]; c). căn cứ vào hai bản kết án chung thẩm của De Courcy, De Champeaux và Triều đình Đồøng Khánh [ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 247 và tập 37, sđd., tr. 33, 35, 132 –141]; d). căn cứ vào cả tư liệu của Puginier, H. Le Marchant de Trigon, A. Delvaux (1916)… , các tư liệu chưa công bố của Pháp được trích dẫn bởi Yoshiharu Tsuboi (NĐNĐDVP. & TH., công trình được tài trợ bởi chính phủ Pháp với sự giúp đỡ của một số nhà sử học Pháp [1982]; quan điểm của Tsuboi vẫn là bảo hoàng, tư sản…).
Xin nhấn mạnh:
Có ý kiến khác: Đưa vua Hàm Nghi về nhưng vẫn tiếp tục cần vương; Hàm Nghi sẽ lãnh đạo tổng quát cuộc kháng chiến bằng mật dụ; chỉ đạo kháng chiến trực tiếp chỉ cần Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng… Bởi lẽ, một nước có hai vua là quá táo bạo! (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., cuối tr. 244).
Xin tham khảo thêm:
1. Những tư liệu sau đây khớp với tư liệu chuẩn cứ (Đại Nam thực lục, chính biên, tập 36, và có thể kể cả tập 37, bộ sđd.) cũng như các tư liệu khác, chúng tôi đã có dịp trưng dẫn trong bài viết “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi 05.07.1885” (đã in trong tập tư liệu “Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường – Các báo cáo khoa học”, do Trung tâm KHXH. & NV. thuộc Viện Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế, Tạp chí Huế Xưa và Nay tổ chức, in ấn, 02.07.2002, tr. 59 – 83):
◘ Tài liệu 1: Bài báo “Những biến cố ở Huế” (Les évènements de Huế), đăng trên tờ nhật báo L’Unité – Indochinoise (cơ quan của quyền lợi chính trị, thương mại, canh nông, kĩ nghệ của Nam Kì, Cam Bốt, Bắc Kì và Trung Kì), số 70, năm thứ hai, ra ngày thứ sáu, 07.08.1885.
Đoạn mở đầu, tác giả khẳng định: “Cách đây vài ngày, chúng tôi đã viết là [Nguyễn Văn] Tường chẳng bao giờ là đồng minh của chúng ta. Nay, cần thêm rằng, chúng ta chẳng hề tin tưởng một tí gì về những lời hứa hẹn chính thức nhất của ông ta, và rằng, sau chuyến bôn tẩu của nhà vua An Nam cùng với vị thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết, ông ta ở lại kinh thành chỉ nhằm mục đích phục vụ cho những người nói trên (vua và Tôn Thất Thuyết) mà thôi”.
◘ Tài liệu 2: Bài báo “Vụ bắt giữ viên quan Tường” (L’arrestation du mandarin Tường), đăng trên tờ báo Avenir militaire (Tương lai quân đội), số ra ngày 26.09.1885. Đây là một bài báo đã được tìm thấy trong tình trạng đã được cắt rời khỏi tờ báo.
Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc lược dịch như sau: “Chúng ta đã tìm thấy những thông tin sau trong một bức thư đề ngày 11 tháng 09 gửi cho Hãng Thông tấn Havas: Tôi đã gửi cho ông chiều hôm qua một điện tín để báo cho ông biết việc vị đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường bị bắt. Bằng cách nào và tại sao người ta bắt ông?
Sau biến cố 05 tháng 07, [Nguyễn Văn] Tường tìm gặp thống tướng [[De Courcy]], ông ta bị bắt cầm tù và buộc phục vụ cho nước Pháp. Thoạt tiên, tướng tổng tham mưu định xử bắn ông, nhưng nghĩ lại, tốt hơn là giao cho ông ta tái lập guồng máy hành chính An Nam nhưng ông vẫn là tù nhân chừng nào những xao động chưa được xếp đặt yên ổn, người ta uỷ thác cho ông ta tái lập niềm tin trong dân chúng và giúp chúng ta theo dõi tất cả hoạt động của giới quan lại. Ông ta có nhiệm vụ đưa vua hồi loan và không được phản bội lại chúng ta. Tất cả những điều kiện ấy đang được thực thi hay ít ra chúng ta tưởng như vậy cho đến những ngày gần đây, chúng ta biết rằng [Nguyễn Văn] Tường liên lạc bí mật với thân phụ [nhạc phụ?] ông ta ở bên ngoài. Người ta không tìm thấy gì khi bắt giữ những người chuyển văn thư. Nhưng, vào chiều ngày thứ hai vừa qua, tình cờ ta bắt giữ được một tên trong bọn chúng. Khám xét khắp người, người ta chẳng tìm thấy gì. Khi lột trần tên mật sứ kia, khám kĩ y, người ta đã tìm thấy một mảnh giấy nhỏ, nội dung được dịch ngay tại chỗ và quyết định bắt giữ [Nguyễn Văn] Tường ngay tức thì. Nội dung mảnh giấy là gì, chỉ có thống tướng biết…”.
◘ Tài liệu bổ cứu cho bài báo trên: “Ngày 05 tháng 09 là hạn chót hai tháng mà ông thống tướng De Courcy quy định cho [Nguyễn Văn] Tường phải ổn định An Nam. [Nguyễn Văn] Tường, như người ta nhận biết, đã cung cấp cho chúng ta những nguồn tin thất thiệt; mặc dù chúng ta đã giám sát chặt chẽ, ông ta vẫn liên lạc với những nhân vật đáng ngờ ở bên ngoài. Thống tướng quyết định cho bắt giữ ông ta”.
(Trích Gosselin, L’Empire d’Annam, Perrin et Cie, Librairies – éditeurs, Paris, 1904, tr. 219).
Sau khi giới thiệu các tài liệu trên, nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc kết luận:
“Vậy là, các nguồn tư liệu đều cho chúng ta biết rằng trong thế bị cầm tù ở Thương bạc, và dù bị giám sát chặt chẽ, Nguyễn Văn Tường vẫn liên lạc với bên ngoài cho đến khi bị phát giác và bị bắt. Cho nên những việc ông công khai làm dưới sự ép buộc của người Pháp trong tình thế bị giam hãm là những hành động bất đắc dĩ, không thật tâm, còn những liên lạc bí mật với bên ngoài, chính là những cố gắng cuối cùng của ông nhằm phục vụ Đất nước, bày tỏ trung thành với vua Hàm Nghi. Đó là lí do chính yếu mà De Courcy quyết định bắt và lưu đày ông …”.
(Trần thuật và dẫn theo bài báo của Trần Viết Ngạc, “Những tư liệu mới về Nguyễn Văn Tường” [giới thiệu, phân tích, bổ sung tư liệu sưu tầm, dịch thuật của bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh, hậu duệ của cụ Nguyễn Văn Tường, và con gái bà là Trần Nguyễn Từ Vân], bns. Xưa & Nay, số 126 (174) tháng 10.2002, tr. 18 – 20).
2. Xem thêm: Nhiều tác giả, Côn Đảo, kí sự và tư liệu, Ban liên lạc tù chính trị, Sở Văn hóa – Thông tin, Nxb. Trẻ Tp. HCM. phối hợp xb., 1998, tr. 85: Khi đày Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Đính ra Côn Đảo, De Courcy có gửi theo một mật hàm cho chúa đảo là Caffort:
“Tầm quan trọng của những tù nhân này đòi hỏi phải được giám sát hết sức nghiêm ngặt với bất cứ giá nào”.
Theo tư liệu trên, Nguyễn Văn Tường bị Pháp đổ thuốc độc vào miệng, nên răng bị rụng (vài chiếc, và bị lung lay nhiều chiếc khác) (tr. 85).
(Dẫn theo: PGS. TS. Đỗ Bang, tập Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Các báo cáo khoa học, bài “Góp phần làm sáng tỏ những uẩn khúc trong cuộc đời của nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường”, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế phối hợp tổ chức, 02.07.2002., tr. 40).
3. GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng, Nxb. TP. HCM. tái bản, 2003, tr. 560: “Nhưng giữa lúc Cuốc-xy bối rối vô cùng thì Từ-Dũ và Tam cung về Huế. [&?!? – TXA. ct.] Viện Cơ mật [&?!? – ct.], Nguyễn-hữu-Độ làm phó (Độ là phó vương Bắc-kỳ được Pháp tin cẩn), lập một số bộ, trong đó có bộ binh do tên khâm sứ Sam-pô [Champeaux – ct.] cầm đầu. Cuốc-xy ép đám hoàng thân cử Thọ-Xuân làm phụ chánh [đúng chức danh là nhiếp chánh – ct.], ép Thọ-Xuân làm bản tuyên cáo nói rằng Tôn-thất-Thuyết là nghịch đảng, rằng các quan ở Bắc, Trung phải cộng tác với quân Pháp để tiêu diệt nghịch đảng, v.v… Nhưng chính địch cũng phải thừa nhận rằng ông già Thọ-Xuân 76 tuổi “không có ảnh hưởng gì trong nhân dân cả”, càng không có ảnh hưởng gì với tầng lớp thân sĩ trí thức.
“Cái khả năng duy nhất của ông phụ chánh [nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định – TXA. ct.] chỉ là ký tên mà thôi” (Gosselin, L’Empire d’Annam [tr.? – ct.])”.
4. Xem thêm: Có một giai thoại về phụ chính Nguyễn Văn Tường sau ngày kinh đô quật khởi và bị thất thủ, đề cập đến tài năng, nhân cách, tư tưởng, thái độ chính trị kiên cường chống Pháp và lòng trung nghĩa của ông. Những đoạn trong giai thoại này, sau khi khảo chứng (đối chiếu tư liệu gốc, bổ cứu, loại trừ …), xét thấy không đúng với sự thật lịch sử, chúng tôi đã mạn phép lược bỏ. Mặc dù giai thoại chỉ là chuyện truyền khẩu, chứa đựng nhiều sai lệch, nhưng ít nhiều vẫn có thể đãi lọc một vài lượng thông tin nào đó, trên cơ sở khảo chứng khoa học. Có một điều cần nhấn mạnh, Nguyễn Văn Tường được cử ở lại Huế sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ không chỉ nhằm mục đích hạn chế sự thiệt hại về nhân mạng, tài sản triều đình và của cải nhân dân, mà còn để thực hiện phương án vừa đánh vừa đàm. Cũng cần nhấn mạnh, Nguyễn Văn Tường vốn là một đại thần trung nghĩa, và ông thừa biết thủ đoạn “gạ gẫm” của bọn Pháp. Xin chép lại để tham khảo thêm như sau:
“ … Dưới thời Tự Đức, [phụ chính Nguyễn Văn] Tường làm quan nổi tiếng là một người mưu lược, những việc gì khó thì triều đình đều cử [Nguyễn Văn] Tường đảm nhiệm. Tự Đức mất, để di chiếu lại, cử [Nguyễn Văn] Tường là một trong ba người trọng thần. (Hai người kia là Trần Tiễn Thành và Tôn Thất Thuyết). Lúc Pháp xâm chiếm Việt Nam, [Nguyễn Văn] Tường và [Tôn Thất] Thuyết là hai người đứng đầu phe chủ chiến quyết tâm đánh Pháp. Sau sự kiện thất thủ kinh đô (07.1885) [đệ nhị phụ chính Tôn Thất] Thuyết đưa vua Hàm Nghi xuất bôn, tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài, [đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn] Tường là người mưu lược, được cử ở lại để tìm mọi cách hạn chế bớt sự thiệt hại. Vì “nhiệm vụ lịch sử”, [phụ chính Nguyễn Văn] Tường đã bị mang tiếng phản bội, cộng tác với giặc.
[Phụ chính Nguyễn Văn] Tường là một đối thủ đáng gờm của Pháp từ mấy mươi năm. Cho nên khi [phụ chính Nguyễn Văn] Tường đã “về hàng” mà Pháp vẫn sợ và cho một đơn vị quân đội luôn canh chừng [Nguyễn Văn] Tường. Mặt khác, Pháp muốn dùng “tên” của [phụ chính Nguyễn Văn] Tường để làm “tay sai” cho chúng, nên chúng đã tìm mọi cách để lôi kéo [Nguyễn Văn] Tường.
Khi được linh [giám] mục Caspard [Caspar] cho biết [phụ chính Nguyễn Văn] Tường chính là con vua Thiệu Trị và em vua Tự Đức, Pháp đã gạ [Nguyễn Văn] Tường:
- Ông là người có dòng máu nhà vua, lại có tài, vậy ông có muốn làm vua không?
[Phụ chính Nguyễn Văn] Tường lắc đầu. Pháp lại hỏi:
- Nghe ông có một người con cũng giỏi lắm. Ông có muốn cho con ông làm vua không?
[Phụ chính Nguyễn Văn] Tường cũng lắc đầu.
Tên đầu sỏ thực dân Pháp ở Huế [De Champeaux] cũng lắc đầu:
- Con vua mà không muốn làm vua … Thật là một chuyện lạ! Phải chăng lòng ông còn đang mơ tưởng đến Hàm Nghi, phải không?
Sự nghi ngờ [phụ chính Nguyễn Văn] Tường trong lòng bọn thực dân lại chồng chất thêm. Cuối cùng, khi thấy không thể tin được, bọn Pháp đã đưa [phụ chính Nguyễn Văn] Tường đi đày và ông đã chết …”.
(Nguyễn Đắc Xuân viết theo Phan Văn Dật [thi sĩ tiền chiến, người Quảng Trị] và nhiều tư liệu khác, “Con vua mà không chịu làm vua”, trong cuốn Hương giang cố sự, Tủ sách Sông Hương xuất bản, 1986, tr. 47 – 48. Xem thêm: Nguyễn Đắc Xuân, Chuyện các quan triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, 1999 (?)…).
Chúng tôi đã viết rõ ở truyện thứ nhất, tập I, bộ truyện kí – khảo cứu lịch sử “Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường”: ông không phải là con rơi của vua Thiệu Trị.

(10). Đào Doãn Địch (ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 79). Xem thêm về nhân vật Đinh Hội (ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 80, 142 [?], 244, 325): Đinh Hội chống Pháp, không chống Triều đình thời Nguyễn Văn Tường còn giữ vị thế.

(11). Đây là loại thông tin bản án. Trong các loại thông tin, loại bản án, cáo thị, mật thư, mật dụ… hiển nhiên có độ khả tín cao nhất. Các loại thông tin này được phối kiểm và kiểm chứng bằng suốt cả quá trình hoạt động lâu dài và ở kết thúc cuộc đời nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (bị lưu đày và chết ở chốn lưu đày biệt xứ). Ở kỉ đệ tứ, đệ ngũ (các tập 27 – 36), những văn kiện trên là hoàn toàn xác tín. Riêng ở kỉ đệ lục (2 tập 37 – 38), ngoại trừ bản án về bốn nhân vật chủ chốt [*] trong nhóm chủ chiến đã được xác định độ khả tín tuyệt đối, thì số văn kiện liên quan còn lại, cần phải đãi lọc (chúng tôi đã thực hiện ở bài viết).
Năm 1890, Trương Quang Đản có dâng sớ chạy “tội”, kêu “oan” cho Trương Văn Đễ, do quyền lợi chính trị thời bị “bảo hộ”!? Chỉ có một trường hợp như vậy (xem “Đại Nam liệt truyện”, tập 3, sđd., tr. 425 – 426). Người viết nghĩ rằng, ngoài việc cùng chủ trương cuộc Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885), Trương Văn Đễ còn được trao nhiệm vụ cản hậu và đánh lạc hướng các cuộc truy kích vua Hàm Nghi mà thực dân Pháp cố quyết tiến hành. Riêng chi tiết (cản hậu, đánh lạc hướng) này, và vai trò tương tự của Đinh Tử Lượng, cần được nghiên cứu, xác minh thêm, mặc dù chúng tôi nhận thấy đã có đủ dữ kiện trong ĐNTL.CB., tập 36, tr. 223, 229, 234, 243.
[*] Phạm Thận Duật hóa ra chỉ là một nhân vật rất mờ nhạt, không có tên trong bản án chung thẩm này.

(12). “Nguyễn Văn Tường, thượng thư, sau này là phụ chánh, Văn Minh, sau [nữa là] Cần Chánh, Ky-vi-ba, phụ trách đối ngoại, bị đày vào năm 1885 ở Tahiti và mất tại đó” [bị chú của H. Le Marchant de Trigon; những chữ trong dấu móc vuông [ ] là của chúng tôi – người viết và chú thích chua thêm (TXA. ct.); xin lưu ý thêm: 29.8.1875 (một ngàn tám trăm bảy mươi lăm)].
Trích từ: H. Le Marchant de Trigon, bài “Vị đại biện đầu tiên của nền bảo hộ đến Huế” [viết về Rheinart], Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1917), Nxb. Thuận Hóa, 1998, tập IV, sđd., tr. 273).

(13). Về Tôn Thất Thuyết, tên ông hầu như luôn luôn gắn liền với danh tính Nguyễn Văn Tường, hoặc được gọi chung là “hai người” trong ĐNTL.CB., tập 35 – tập 37, Nxb. KHXH., 1976 – 1977, chứng tỏ sự nhất dạng cao. Tuy nhiên, trước đó cũng có lần Tôn Thất Thuyết mắc mưu bôi nhọ, nhằm triệt hạ, đập tan tành uy tín Nguyễn Văn Tường của De Champeaux:
“Thượng thư bộ hộ là Nguyễn Văn Tường vì bị lời gièm (nguyên hiệp đốc là Tôn Thất Thuyết tâu nghĩ về việc tiền đồng dị dạng có nói: “Thuyền nước khác mang đến, hết lòng xin giúp”; lại nói: “Cùng người chia lợi, mọt nước hại dân, lại ở kinh đô đồn rầm là Nguyễn Văn Tường nhận nhiều của lót, tâu xin bỏ cấm”) xin trả việc Bộ Hộ, đổi sung bộ khác.
Vua dụ rằng: “Thuyết ít học không thông, lại có tật nóng nẩy, nói càn, sao đáng kể; lời đồn ở kinh đô cũng không căn cứ; người xưa không thể dẹp được lời gièm, cho nên nói: “Cứu rét không gì bằng mặc hai lần áo cừu, dẹp lời gièm không gì bằng tự phải tu tỉnh”. Nguyễn Văn Tường từ lúc giữ việc ở Bộ Hộ đến giờ, có phần hết lòng trù tính, thuế khóa của nước có hơn lên; đương lúc phải giữ đà về quân nhu bận rộn, đều được ổn thoả cả. Trẫm đương trách uỷ cho làm có thành hiệu sao nên tự đẩy đem thoái thác”” (ĐNTL .CB., tập 34, Nxb. KHXH., 1976, tr. 370: tháng 9 âl., 1880).
“Sứ nước Pháp nghe nói tỉnh Quảng Nam có mỏ than, (khách buôn lãnh trưng), yêu cầu xin đến khám; chưa cho, sứ ấy lại thác ra việc mật đưa thẳng lên vua, ngầm gièm quan Viện – Bạc đại thần, (trong thư nói: “Có người bất trung, bất công đến nỗi ngờ nước ấy có ý gì khác, lấy nhiều của lót giả ơn của người nước Thanh”; lại nói: “Người cho lái buôn nước Thanh khai mỏ ấy chỉ mưu lợi cho mình, không làm lợi cho nhà nước”), quan Viện – Bạc xin đưa thư cho chủ suý Pháp và sao bức thư của sứ ấy ghim vào gửi đi, để cho biết sứ ấy có sự không phải, để khỏi nghe một bề về sau.
Vua bảo rằng: “Nay nếu đem lời nói không phải của hắn, vội viết thư cho chủ suý của hắn, không khỏi bênh nhau bỏ đi, ích gì đến ta; thế là đều không nhịn sự giận nhỏ, để lỡ việc lớn, không phải là khéo xử. Nên mật tư từ đầu cuối việc ấy giao cho Nguyễn Thành Ý theo thế nói cho chủ suý hắn biết”” (ĐNTL.CB., tập 34, sđd., tr. 341: tháng 4 âl., 1880).
Đó là một biểu hiện của cuộc chiến tranh trên mặt trận kinh tế (ngoại thương, tài chính).
Sau lần hiểu lầm vì mắc mưu De Champeaux ấy, hai người luôn luôn đoàn kết với nhau, cho đến lúc Nguyễn Văn Tường bị lưu đày sang Tahiti, Tôn Thất Thuyết sang Trung Hoa cầu viện trong tuyệt vọng…

(14). Việc lập Đồng Khánh là chẳng đặng đừng, trái với di chúc của Tự Đức. Di chúc đã ghi rõ: “Ưng Kỉ người yếu hay ốm, có tâm tật, chưa học thông mà kiêu ngạo, hay bới việc riêng của người khác cho lạm thẳng, đều không phải là tư chất thuần lương, theo lời phải; sợ bọn ngươi khó lấy lời nói can được” (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 200 – 201). “Lạm thẳng” là vi phạm tính trung trực, hay bẻ cong sự thật! Một tác giả thực dân Pháp đã viết: “Chưa hề ở xứ sở nào, thời nào có ông vua bị thần dân oán ghét như vua bù nhìn Đồng Khánh” (Charles Gosselin, L’Empire d’Annam, Paris, 1904, tr. 267; dẫn theo Dương Kinh Quốc, Phan Canh, Đào Đức Chương, Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng…).
Với bài “Giải triều…”, Nguyễn Văn Tường khẳng định lòng mình chỉ hướng đến vua Hàm Nghi.

(15). Xem thêm các bài viết của thực dân Pháp (xin đọc với cách đọc theo quan điểm yêu nước, dân tộc của chúng ta và công lí chân chính, tiến bộ của nhân loại):
- +++ A. Laborde, Tỉnh Quảng Trị, NNBCĐH. [BAVH., 1921], tập VIII, Phan Xưng dịch, Nhị Xuyên hiệu đính, Nxb. TH., 2001, tr. 196, 200 … (xem lại chú thích (3)).
- +++ H. Cosserat, Người ta viết sử như thế nào: Đón tiếp đại tá Guerrier tại Triều đình nước Nam ngày 17.8.1884, NNBCĐH. [BAVH., 1924], tập XI, sđd., tr. 373 – 397. Trích bài viết này:
“… Đúng pháp luật mà nói, thì ông Tường ra khỏi kinh thành là để trình diện trước tòa án binh […]; nếu khôn ngoan hơn, thì ta không nên để một con người [chỉ Nguyễn Văn Tường – TXA. ct.] rõ ràng là kẻ thù của chúng ta cầm Triều đình, một con người luôn đã và sẽ chống phá nền đô hộ của chúng ta theo cách này hay cách khác, không chịu chấp nhận nó.
Nhưng chúng ta đã tin, đã làm bộ tin sự thành thật trong những lời phản đối của ông ta [về các biến động trong Triều đình – ct. theo mạch văn của tên thực dân xấc xược Cosserat], và đã chấp thuận những lời khôn khéo của ông ta như là bằng chứng của ý nghĩ tốt. […].
“Thay vì Kiến Phúc thì nay là Mệ Tríu [Hàm Nghi – ct.]”, và luôn vẫn là Nguyễn Văn Tường trị vì.
Thật sự, từ nay […] quan phụ chính [Nguyễn Văn Tường – ct.] không thể tha hồ bày mưu tính kế để chống lại chúng ta […].
Tướng De Courcy, theo lời của Huart, chiều 3.7 mới biết được kết quả tiêu cực của các sự thương thảo với Triều đình về việc đón tiếp ông, và người ta đã đề đạt tới ông các lời báo cáo chẳng có tính cách gì làm dịu bớt sự nôn nóng của ông, hoặc làm cho ông có thiện cảm với người nước Nam.
Con người hôn mê [chỉ Nguyễn Văn Tường – ct.] có ý chẳng làm cho tướng tổng chỉ huy [chỉ De Courcy – ct.] có được điều gì khá hơn là những điều mà con người ấy đã làm cho các khâm sứ khác … […] (bđd., sđd., tr. 380 – 382).
Nói chung, điều chúng tôi thấy cần nhấn mạnh là, thái độ thù – bạn, địch – ta của các tên thực dân, tay sai, kể cả cố đạo mang bản chất xâm lược, thể hiện rất rõ trong các bài viết của chúng, trên NNBCĐH. (BAVH.) suốt ba mươi năm ấn hành (1914 – 1944), trên sách báo xuất bản tại Pháp trước đây. Chúng không tiếc lời ca ngợi bọn tay sai như Trần Tiễn Thành, Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Thân, Cao Xuân Dục… Chúng cũng đề cao đáng kể người đã thật sự đầu hàng chúng, ra quân đánh dẹp phong trào Cần vương như Hoàng Tá Viêm [*]. Và tất nhiên chúng tìm đủ mọi cách để triệt hạ uy tín những người chống Pháp, chống tả đạo đến cùng như Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết… Vấn đề là thái độ thù địch, căm hận của chúng đối với Nguyễn Văn Tường, còn lượng thông tin trong các bài viết ấy về ông, chúng tôi phải phối kiểm (không thể nhẹ dạ, cả tin đến ngây thơ và phi khoa học như một số người được gọi là nhà văn, nhà sử học…). Chúng tôi nghiên cứu những bài viết ấy trong sự lưu ý với tinh thần cảnh giác đó, và lấy ĐNTL.CB. IV, V (1847 – 1883; 1883 - 1885), đặc biệt là các tư liệu gốc (CHÂU BẢN…) được trích dẫn trong đó, gồm quốc thư, dụ, mật dụ, tấu, sớ, bản án (và cả bản án cáo thị của De Courcy, De Champeaux)… làm chuẩn cứ, đồng thờiø tham khảo, phối kiểm, đãi lọc thêm ở ĐNTL.CB.VI (1885 – 1888, kỉ ngụy triều Đồng Khánh!).
[*] Theo ĐNTL.CB, tập 37, sđd., tr. 200 – 203, 305: Hoàng Tá Viêm “đánh để yên dân, không phải đánh lấy thắng”. Đó là quan điểm yên dân trong nô lệ của ngụy triều Đồng Khánh!



2. CƯỚC CHÚ bài NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886) VỚI NHIỆM VỤ LỊCH SỬ SAU CUỘC KINH ĐÔ QUẬT KHỞI (05 THÁNG 7, 1885):

[1] Chu Thiên Hoàng Minh Giám dịch.
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 225 – 226.
[3] ĐNTL.CB., tập 36, sđđ., tr. 221 và tr. 230; Nguyễn Nhược Thị Bích, Hạnh Thục ca, Nxb. Tân Việt, 1950 [?], tr. 39 – 40.
[4] Trong “Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốc” [!], Lam Giang, Võ Ngọc Nhã sưu tầm, Sài Gòn, 1971, tr. 516 – 517.
[5] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 236 – 237.
[6] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 157 – 158.
[7] ĐNTL.CB., sđd., tr. 157 – 158.
[8] ĐNTL.CB., sđd., tr. 210, 213 – 214.
[9] ĐNTL.CB., sđd., tr. 166.
[10] ĐNTL.CB., sđd., tr. 236.
[11] ĐNTL.CB., sđd., tr. 226.
[12] Hạnh Thục ca, sđd., tr. 48.
[13] Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 553 – 554; Nxb. VHTT., b. 1999, tr, 582 – 583.
[14] ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH., 1997, tr. 43.
[15] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 224.
Xin nhấn mạnh: chú thích (2) ở cuối bài.
[16] Hạnh Thục ca, sđd., tr. 36.
[17] Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn, Nxb. TH., 1990, tr. 97.
[18] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 220.
[19] Delvaux, bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1916), tập 3, Đặng Như Tùng dịch và một nhóm dịch giả khác hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 74.
[20] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 63 – 64, 220.
[21] ĐNTL.CB., tập 30, Nxb. KHXH., 1974, tr. 170 – 172; tập 31, Nxb. KHXH., 1974, tr. 86 – 87, 103.
[22] Trần Xuân An (biên soạn), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ – Vài nét về con người, tâm hồn, tư tưởng, chưa xuất bản, bài số 38, tr. 271.
[23] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 64 – 66; Delvaux, bài viết ở sđd., tr. 54.
[24] Bản dịch tiếng Việt của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, 1998, tr. 502 – 504.
[25] Trần Trọng Kim, b.1999, Nxb. VHTT., tr. 545 – 546.
[26] ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH., 1975, tr. 26.
[27] Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, UB. KHXH. TU. TP. HCM. xb., 1990, tr. 117.
[28] Bài của GS. Nguyễn Văn Kiệm, trong Kỉ yếu Hội nghị khoa học về đề tài “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, ĐHSP. TP.HCM., 20.6.1996, tr. 14.
[29] Delvaux, bđd., sđd., tr. 57, tr. 79 – 80, đoạn cuối tr. 81 – 82.
[30] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. Tâân Việt, b. 1964, tr. 554.
[31] Đoàn Trưng, Trung nghĩa ca, 1866.
[32] Delvaux, NNBCĐH. [BAVH., 1916], bài viết và sđd., tr. 54.
[33] Jabouille, bài “Một trang viết về lịch sử Quảng Trị: tháng 9.1885”, NNBCĐH. [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, Nxb. TH., 2002, tr. 439.
[34] Trích theo GS. Trần Văn Giàu, “Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử” [tập I của bộ sách SPTTTVN. TTK. XIX. ĐCMTT.], Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 368, 370, trích dẫn Compendium historicoe Ecclesiasticoe của H. Ravier; xem thêm: ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 242, 245 – 246.
[35] Bài của Delvaux, sđd., tr. 78 – 79.
[36] Delvaux, bài đã dẫn, sđd., tr. 79.
[37] Jabouille, bài đã dẫn, sđd., tr. 434.
[38] Xem thêm: Delvaux, bài đã dẫn, sđd., tr. 47; Tsuboi, sđd. [trích dẫn Puginier qua Louvet], tr. 82.
[39] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 244 – 246.
[40] Lương An sưu tầm và chỉnh lí, Nxb. Thuận Hoá, 1983, các câu 1337 – 1348.
[41] Delvaux, bđd., sđd., tr. 80.
[42] Như trên: Delvaux, bđd., sđd., tr. 80.
[43] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 229.
* Về việc Nguyễn Văn Tường cùng Tôn Thất Thuyết bàn bạc kế hoạch, cùng tổ chức cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 23.5 Ất dậu [1885], xem Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, 1990, tr. 59, tr. 95 – 101, đặc biệt là tr. 97 – 98; xin xem thêm: Phạm Văn Sơn, Việt Nam cách mạng cận sử, Sài Gòn, 1963, tr. 29 – 31; Nguyễn Bá Thế, Nguyễn Q. Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb. VHTT., 1999, tr. 706 – 707; Dậu tuất niên gian phong hỏa kí sự, trong “Đặng Đức Tuấn…”, Lam Giang, Võ Ngọc Nhã sưu tầm, Sài Gòn, 1970, tr. 478 – 479; Silvestre, Khoa học chính trị kỉ yếu, 1898, tr. 93 – 94; Gosselin (tác giả L’Empire d’Annam, Paris, 1904) cũng có ý kiến như vậy bên cạnh những chi tiết bịa tạc khác. Sở dĩ chúng tôi cho rằng điều đó là đúng vì ĐNTL.CB, đệ lục kỉ, tập 37, sđd., tr. 35 cũng kết án (!) Nguyễn Văn Tường… “đều là bè đảng làm loạn”; “thực là căn nguyên tai vạ” (tr. 33), “Nguyễn Văn Tường liền quỷ quyệt đem thân quay về thú tội với quan đô thống Pháp, rồi đã bị tội lưu” (tr. 132 – 141); trong VNSL., Trần Trọng Kim cũng dùng chữ “đầu thú” với nghĩa đầu hàng (tất nhiên là “trá hàng”, và trá hàng để tiếp tục đấu tranh, để phe chủ “hoà”, thân Pháp, tả đạo khỏi cướp chính quyền…). Tại sao Trần Trọng Kim và chúng lại bảo Nguyễn Văn Tường “đầu thú”, “trá hàng”, còn những người về hợp tác với chúng thì không? Phải chăng về sau, Pháp biết Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết bàn định trước? Rất tiếc cuối cùng ông vẫn bị “tương kế tựu kế” của Caspar, De Courcy… Chắc chắn ông đã liệu trước nguy cơ ấy, nhưng không còn cách nào khác, để cứu vãn tình hình kinh đô thất thủ, nên “đành liều may rủi với trời” một lần nữa!
[44] A. Delvaux, bài viết trên, sđd., tr. 77.
[45] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 240 – 241.
[46] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 223.
[47] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 238.
[48] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 250; Đại Nam liệt truyện, tập 3, Nxb. TH., 1993, tr. 78.
[49] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 239.
[50] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 235.
Có ý kiến khác: Đưa vua Hàm Nghi về nhưng vẫn tiếp tục Cần vương; Hàm Nghi sẽ lãnh đạo tổng quát cuộc kháng chiến bằng mật dụ; chỉ đạo kháng chiến trực tiếp chỉ cần Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng… Bởi lẽ, một nước có hai vua là quá táo bạo! (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., cuối tr. 244).
[51] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 223.
[52] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 235 – 236; tập 37, sđd., tr. 175.
[53] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 244, 245 – 246…
[54] Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973, tr. 319.
Đối chiếu với ĐNTL.CB. (cuối tập 36, và đầu tập 37, sẽ được trích dẫn ở những trang tiếp theo), chúng tôi (TXA.) thấy rằng, không phải hai tên thực dân cố đạo Puginier và Von Camelbeck nói sai sựï thật ở điểm này và chúng phát động chiến dịch điên cuồng chống Nguyễn Văn Tường một cách thiếu cơ sở. Do đó, không phải như Cao Huy Thuần nhận định: chính phủ Cộng hoà thực dân Pháp tại Paris bị “tiêm nhiễm” bởi sự tuyên truyền, kích động của Puginier và Von Camelbeck. Sự “tiêm nhiễm” ấy là ở trường hợp khác, vấn đề khác, nhân vật khác, sự kiện khác…
Xin xem thêm chú thích (8) ở cuối bài.
[55] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 227.
[56] ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 86 – 89, tr. 103…
[57] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 225 – 226.
[58] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 226 – 228.
[59] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 247.
[60] Xem lại: Delvaux, bđd., sđd., tr. 79.
[61] Xem lại: Jabouille, bđd., sđd., tr. 434, 439…
[62] ĐNTL.CB., kỉ đệ lục – kỉ bị “bảo hộ”, tập 37, sđd., tr. 33.
[63] VNSL., b.1964, tr. 554 và 555.
[64] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 35.
[65] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 133.
[66] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 134.
[67] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., cuối tr. 244.
[68] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 138.
[69] Xem thêm: Trần Viết Ngạc, bài “Chiếu hay Dụ Cần vương?”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học lịch sử về nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, ĐHSP. TP.HCM., 20.6.1996, tr. 25 – 30; Xưa & Nay, số 128, tháng 11. 2002, tr. 9 – 11 (trừ 2 luận cứ 7 & 8).
[70] NNBCĐH. (BAVH., 1917), tập IV, Nxb. Thuận Hoá, 1998, tr. 272 – 273.
[71] Giải triều… : Chia tách triều chính… (hoặc Tan tác triều đình …).
** Chính Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tứ và đệ ngũ kỉ, biên soạn chủ yếu dưới thời Thành Thái, lại khắc in cũng ở thời Thành Thái, năm thứ 6 (1894) đến năm thứ 14 (1902) – Thành Thái là con trai của Dục Đức! – đã làm sáng tỏ nhân cách đạo đức của Nguyễn Văn Tường trong bi kịch bị vu khống này, cũng như tất thảy những vụ việc khác, một cách chi tiết trong hạn chế của ý hệ bảo hoàng! [ĐNTL.CB., các tập 27 – 36, sđd.; lời dụ và tờ tâu về việc khắc in, tr. 12 và tr. 17 (tập 27), tr. 5 và tr. 13 (tập 36)]. Còn đệ lục kỉ gồm hai tập 37, 38 viết về triều Đồng Khánh, khắc in vào năm 1909, có lời dụ của Duy Tân (còn quá bé) ngợi ca cả Đồng Khánh (14) bù nhìn, tay sai hèn hạ, chống người yêu nước chân chính và phong trào Cần vương ấy [ĐNTL.CB., tập 37, tr. 5 – 6], hẳn là ĐÁNH GIÁ NGƯỢC để lưu sự thật. Chính Duy Tân lại theo con đường của Hàm Nghi, với sự bàn bạc, thực hiện kế hoạch cùng Thái Phiên, Trần Cao Vân, cũng là theo kế hoạch 1885 của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trước đó. Hai vị vua yêu nước này đã bị Pháp lưu đày như Nguyễn Văn Tường. [Chúng tôi không muốn nói đến giai đoạn sau của vua Duy Tân!].
[Xin xem chú thích (14) ở cuối bài khảo luận này].
[72] Câu đối của Vũ Tử Văn? hay của Đào Tấn? (Nguyễn Mạnh Hào dịch). Chúng tôi có nhiều cứ liệu để có thể xác định là của Vũ Tử Văn.
[73] ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 126 –127.


Tp. HCM, giữa năm 2000 & 27.4.2002 (HB.2).
Bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau Cuộc Kinh đô quật khởi 05.7.1885” này đã được đăng tải trong cuốn Hội thảo khoa học: Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Các báo cáo khoa học, Trung tâm Khoa học xã hội & nhân văn Huế – Viện Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế ấn hành, Huế – 02.7.2002, tr. 59 – 83.
Tháng 8.2003 (HB.3), nhuận sắc (*).

TXA.

(*) TRẦN XUÂN AN, tác giả bài viết và cũng là người chú thích (viết tắt: nct.) và chua thêm hoặc in đậm ở các đoạn trích dẫn nguyên văn (viết tắt: ct., iđ.). Đại từ "chúng tôi" được dùng ở đây như một cách khiêm xưng và trân trọng, thay vì chữ "tôi" gọn lỏn và cộc lốc.




Bài thứ hai

TRẦN XUÂN AN

BI KỊCH Ở ĐIỂM ĐỈNH
MÂU THUẪN: 1883 – 1884, VÀ SỰ CHIẾN THẮNG
CỦA NHÓM CHỦ CHIẾN YÊU NƯỚC


I.

Đâu phải chỉ hai tháng sau đêm Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23.5 Ất dậu: 04 – 05.7.1885), vấn đề chọn lựa hành động chính trị táo bạo, sáng suốt, vì số phận nhân dân và vận nước, từ lâu đã được tình huống lịch sử đặt ra một cách hết sức gay gắt, gay gắt nhất là từ lúc Tự Đức băng hà [1], tức là vấn nạn đã nẩy sinh hơn hai mươi năm trước đó, từ 1858, đặc biệt là từ tháng 7.1883 (tháng 6, Quý mùi).
Cần phải thấy rõ tư tưởng chủ chiến ở Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và bao sĩ phu khác trong quan hệ biện chứng với từng chuyển biến thời cuộc – từng quyết sách của Tự Đức, từng thủ đoạn của Pháp, từng giai đoạn quấy rối của bọn phỉ Tàu. Có những lúc phải nhẫn nại, giấu lòng, thầm lặng nung nấu ý chí kháng chiến!
Nhưng ở thời điểm căng thẳng nhất, sau vụ Henry Rivière (1882), Pháp đánh chiếm Bắc kì, chuẩn bị âm mưu uy hiếp kinh đô Huế, Tự Đức lại mất, lại để di chiếu truyền ngôi cho Dục Đức!

1. Dục Đức

Di chiếu với nét chữ thường và chữ son đỏ châu phê của Tự Đức lại ghi rõ về Ưng Chân (tên lúc chưa nối ngôi): “Mặt hơi có tật, giấu kín [thì nhìn – TXA. chua thêm (ct.)] không rõ ràng, sợ sau không sáng; tính lại hiếu dâm, cũng rất là không tốt; chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước cần có vua nhiều tuổi; đương lúc khó khăn này, không dùng hắn thì dùng ai?” [2]! Bản nguyên văn chữ Hán: “Đản vi hữu mục tật, bí nhi bất tuyệt, cữu khủng bất minh, tính phả hiếu dâm, diệc đại bất thiện, vị tất năng đương đại sự. Quốc hữu trưởng quân, xã tắc chi phúc, xã thử, tương hà dĩ tai”. Ở các trang khác của Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.): mắt có tật, có lẽ nhắm không kín, có khả năng mù [3].
Di chiếu phản ánh ưu tư của Tự Đức về vị vua kế nhiệm, về tiền đồ Đất nước. Tự Đức đã sắp xếp ba vị phụ chánh đại thần, cho phép “nghiêm sắc mặt đứng ở Triều đình, [với sự – ct.] giữ mình đứng đắn” để giúp vua, đốc thúc quan thuộc [4].
Quốc sử quán triều Nguyễn còn chép rất chi tiết:
Dục Đức lên ngôi, mặc dù chưa tuyên đọc di chiếu đã tạo phe cánh riêng (ra vào cung điện, bọn tay chân ấy được cấp chế bài (thẻ bài vua ban) để đeo!). Dục Đức lại bê trễ cả việc phê duyệt các tờ tâu khẩn cấp của các quân thứ. Y còn vi phạm cả quy chế lễ tang (mặc áo sắc lục), tính đến chuyện trang sức ngay khi Tự Đức mới được khâm liệm [5]! Chưa nói đến những vi phạm nghiêm trọng liên quan đến an nguy của Đất nước, triều đình, cung cấm, ngay mỗi một điều giữ lễ về hiếu đạo ấy, từ trước vua Tự Đức đã căn dặn, nếu thế, phải tử hình; có văn bản cất vào hòm sắt [6].
Theo Delvaux [7], trong nhóm người được tùy tiện ra vào cung cấm ấy, có cả linh mục Thơ (Nguyễn Hữu Cư, 1874, là tham tá Thương chánh Hải Dương).
Linh mục này đã từng được các thực dân cố đạo đào tạo tại Pénang, cũng đã nhiều lần sang Pháp, Tây Ban Nha. Y có khả năng là nội gián của Pháp. Dục Đức lại dùng y làm thư kí riêng!
Dục Đức còn muốn cắt di chiếu, vì “nghĩ trong tờ di chiếu răn bảo có những câu không tốt, không thể truyền bá cho mọi người nghe; triệu các phụ chính đại thần, cần bớt một đoạn ấy đi, không tuyên lục ra. Trần Tiễn Thành bảo thế cũng ổn, hai người [Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết – ct.] đều thưa rằng: Xin nhà vua quyết định” [8].
Trước đó, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã cùng nhau viết sớ xin vua Tự Đức cắt bỏ đoạn ấy. Tự Đức không đồng ý. Đến lúc Tự Đức mất, sự thể không thể khác được nữa, nhưng Dục Đức vẫn cứ cắt! Vả lại, bản tính và chính kiến của Dục Đức đã bộc lộ rất đáng phàn nàn!
“Văn Tường bảo kín Thuyết rằng: “Tiên đế đã bảo vua nối ngôi chưa chắc đương nổi việc lớn, lại giao cho ngôi lớn. Nay bắt đầu, đã cử động như thế, huống chi là sau này ư? Đó là việc lo riêng cho chúng ta”. Thuyết vốn tính cương trực lại cậy quyền cầm quân liền mật đáp rằng: “Cứ như lời chiếu thì mưu tính là vì xã tắc, bất đắc dĩ mà làm việc nhỏ như Y Doãn, Hoắc Quang [phế lập – ct.], cũng là chí của tiên đế”; nhân thế cũng ý mưu bỏ [phế Dục Đức – ct.] đi” [9].
Tôn Thất Thuyết đã quá sâu sắc, hiểu rõ ẩn ý của Tự Đức: phế Dục Đức, cũng là “chí của tiên đế”, “ vì xã tắc”.
Trong lịch sử, có bao tên vua hoang dâm đến nỗi tan nát cơ đồ, nước mất, dân nô lệ ngoại bang; ai cũng có thể biết một số điển hình dâm ô như thế. Ở trường hợp này, rõ ràng niềm âu lo “sợ không đương nổi việc lớn” vì thói “hiếu dâm”, vì “sợ sau không sáng” là một đoan chắc về Dục Đức, mặc dù chưa khẳng quyết, của chính Tự Đức! Do đó, phế Dục Đức là một chuyện tất yếu. Nếu tại vị y cũng không có uy tín, vì thói hiếu dâm là rất khó chữa và khó giấu, đâu phải chủ yếu vì cắt hay không cắt di chiếu (mặc dù đó là tội đại hình – tội tả chế thư!). “Bất đắc dĩ mà làm việc nhỏ như Y Doãn, Hoắc Quang” là bởi nguy cơ đã thấy trước: Tương Dực, cộng với nguy cơ mù loà (vua mù còn tệ hại cho Đất nước hơn cả ấu chúa!). Tuy vậy, mù loà vẫn đang là nguy cơ xa, vấn nạn là những nguy cơ gần đã bộc lộ ngay trước mắt. Làm sao “nghiêm sắc mặt” với vua trên ngai vàng! Phải chăng Tự Đức đã “đầu hàng”, khi giao phó vận mệnh Tổ quốc và cơ đồ nhà Nguyễn cho một vua nối ngôi như thế? Phải chăng Tự Đức đặt thái hậu, hoàng hậu và đình thần lẫn hoàng tộc, nhất là các quan phụ chính, trước một tình huống tất yếu phải xảy ra việc phế lập? Phải chăng Tự Đức muốn thanh minh cho mình vụ phế Hồng Bảo (một mặc cảm sâu xa và ray rứt khôn nguôi trong Tự Đức)?
Đọc di chiếu, di chúc, ai cũng thấy trong ba hoàng tử, chính Ưng Đăng (sau này là Kiến Phúc) mới xứng đáng làm vua. Phải chăng Tự Đức đã ngầm gợi ý cho các phụ chính, hoàng thân, đình thần: phế Ưng Chân (Dục Đức), lập Ưng Đăng làm vua nối ngôi?
“Xã tắc, quân, dân, thục trọng khinh?” là tư tưởng rất cổ điển và rất truyền thống, đã soi sáng cho Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng nhóm chủ chiến Triều đình Huế đi đến quyết định truất phế Dục Đức (giam lỏng hơn một năm, đến thời Hàm Nghi lên ngôi mới ra lệnh thi hành án) [10].
Tuy thế, quả thật, rất khó để triều đình, hoàng tộc quả quyết chọn Ưng Đăng, một hoàng tử có đạo đức tốt, trí lực thông minh, mới mười bốn tuổi, và không chọn một người trưởng thành nối ngôi. Mặc dù Ưng Kỷ đã trưởng thành, nhưng làm sao thái hậu Từ Dũ, hoàng thân, đình thần và nhất là hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lại có thể tôn lập một kẻ mà chính vua Tự Đức đã ghi trong di chúc:
“Ưng Kỷ người yếu hay ốm, có tâm tật, chưa học thông mà kiêu ngạo, hay bới việc riêng của người khác cho lạm thẳng, đều không phải là tư chất thuần lương, theo lời phải; sợ bọn ngươi khó lấy lời nói can được” [11].
Làm sao tôn lập lên ngôi hoàng đế một kẻ như thế?!

2. Hiệp Hoà

Hồng Dật, em út của Tự Đức, được Tôn Thất Thuyết đưa lên ngai vàng nhà Nguyễn.
Chua chát thay, không những Dục Đức đã bị Pháp mua chuộc, bản thân hư hỏng, mà Hiệp Hòa cũng là kẻ cam tâm đầu hàng, âm mưu cùng Trần Tiễn Thành, câu kết cùng De Champeaux và theo lệnh y! Hiệp Hòa đã dùng kế li gián, hòng đẩy Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đi đến chỗ hai vị phụ chính này giết nhau! Nhưng, với sự đoàn kết một lòng, họ đã phá vỡ âm mưu của Hiệp Hòa, mà đằng sau Hiệp Hòa là Trần Tiễn Thành, Tuy Lí vương, De Champeaux… Đã thế, những kẻ ấy lại định mưu sát Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết! [12]. Trần Tiễn Thành là kẻ mà Hồng Tập và sĩ phu Văn thân kết án tử hình, kẻ “được giao nhiệm vụ thương lượng với nước Pháp và bị liên lụy do sự chăm lo cho quyền lợi nước Pháp” [13]. Không chỉ Tuy Lí vương Miên Trinh, cả Hồng Sâm, Hồng Tu, cũng cùng một giuộc với Hiệp Hòa, Trần Tiễn Thành!
Tất nhiên, Hiệp Hoà và Trần Tiễn Thành phải đền tội bằng cái chết của chúng.

3. Kiến Phúc

Và vẫn không thể chọn Ưng Kỷ (sau này là Đồng Khánh), hai phụ chính, hoàng thân, đình thần tôn Ưng Đăng lên ngôi cửu ngũ.
Khoảng tám tháng sau, lại xảy ra biến cố!
Cái chết Kiến Phúc, chính là do Hồng Hưu hoặc Dục Đức gây ra (2). Trước hết, Kiến Phúc chết vì tham vọng trở lại ngôi vua của Dục Đức. Pháp đã mớm ý cho Vũ thị (hoàng hậu của Tự Đức, mẹ nuôi của Dục Đức), tại Khiêm Lăng, để Vũ thị truyền lại nội dung mớm ý ấy cho vua bị phế truất! (?). Dù vậy, ĐNTL.CB. chép về việc này khá mơ hồ: “Công [khâm ? – ct.] sứ Pháp đến thẳng ngoài cửa Khiêm cung chơi xem. Người đóng ở đấy và quản suất không bảo ban ngăn cản được” [14]….
Hơn nữa, Pháp chơi một lúc hai con bài chủ: không chỉ Dục Đức, mà cả Hồng Hưu! Chúng định đưa lên ngôi một tên vua loạn luân có quả tang, thân Pháp, tiết lộ quân quốc trọng sự, thực hiện âm mưu thực dân của chúng [15]. Trước triều thần, Tôn Thất Thuyết đã nói rõ âm mưu của thực dân Pháp:
“… Sứ cũ Pháp là Lê-na [Rheinart – ct.] ủy cho kí lục Hinh tới dinh bọn tôi nói: “Nếu tôn Gia Hưng vương [Hồng Hưu – ct.] lên làm vua thì y thuận nghe, bằng không thế thì y gây chuyện…””. […] … “Việc Hồng Hưu [không được lên ngôi vua – ct.] có người không bằng lòng (ám chỉ vào Lê-na), đưa tin gièm pha [Triều đình – ct.] đã nhiều…” [16].
Xin trích lại nguyên văn Hạnh Thục ca của Nguyễn Nhược Thị Bích [17]:
“Đã yên việc nỗi Tây kia
Bấy giờ mấy kẻ hiềm nghi lo trừ…”.
Tất nhiên Nguyễn Nhược Thị Bích thương hại, bênh vực Dục Đức, phê phán Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết (3), theo cách cảm nghĩ của một người vừa bảo hoàng hơi mù quáng, vừa chủ “hòa”; thậm chí ít nhiều ái ngại bênh vực cả Hồng Hưu, mặc dù không kháng án hay cải chính gì về vụ loạn luân giữa Hồng Hưu và công chúa Đồng Xuân (sau bị đổi là Phục Lễ, với nghĩa là phải tuân theo lễ giáo)! Chúng tôi chỉ trích dẫn để chứng minh rằng: Theo tác giả Hạnh Thục ca, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Tôn nhân phủ, đình thần cuối cùng phải ra lệnh thi hành án, bởi “ngờ ghét (hiềm nghi)” rằng, chính Dục Đức hoặc Hồng Hưu, một trong hai, đã ngầm giết Kiến Phúc hòng chiếm ngôi vua theo đúng ý đồ của thực dân Pháp. Cái “ngờ ghét” (ngờ, tất nhiên phải ghét), nói theo cách nói của Nguyễn Nhược Thị Bích, lại đúng sự thật với sự xác quyết!

II.

Bi kịch cung đình đẫm máu và thuốc độc này là điểm đỉnh của mâu thuẫn đối kháng giữa lực lượng thực dân Pháp, tả đạo (4), bọn hoàng thân thân Pháp, với lực lượng yêu nước, chủ chiến của Hàm Nghi, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Trương Văn Đễ, Ông Ích Khiêm (5), Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Phan…
Đứng trên lập trường dân chủ và yêu nước, dưới ánh sáng khoa học lịch sử, cần nhìn lại bi kịch ấy.
Bi kịch đẫm máu, thuốc độc ở cung đình nhà Nguyễn 1883 – 1884, nếu nói đủ hơn, còn đẫm sự bôi nhọ, vu khống với tham vọng, tội lỗi có thật của Dục Đức, Hiệp Hòa, Trần Tiễn Thành, Hồng Hưu… cùng sự bán nước, đầu hàng của những kẻ đó; và đẫm niềm đau oan khuất của những con người yêu nước, có nhân cách cao đẹp, trung thành với triều Nguyễn một cách sáng suốt như Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật… Bi kịch ấy thực chất do thực dân Pháp, do bọn đội lốt Thiên Chúa giáo gây ra; cụ thể như đã nói, là chúng mua chuộc, nắm lấy Dục Đức, Hiệp Hòa, Hồng Hưu, Trần Tiễn Thành… nhằm đẩy dân tộc ta vào vực thẳm mất nước, biến triều Nguyễn thành lũ rối bù nhìn, tay sai (như thời Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại về sau).
Ngay dưới chế độ thực dân thống trị, Trần Trọng Kim đã viết về đình thần ngụy triều Đồng Khánh: “Nhiều người đã biết theo chính sách bảo hộ cho nên mọi việc trong triều đều được yên ổn” [18]. Triều đình chỉ có thể yên ổn trong nô lệ!!! Hễ còn người chống Pháp như Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, thì vẫn còn mâu thuẫn đối kháng trong triều đình, do thực dân, tả đạo gây ra với sức ép, sự mua chuộc của chúng đối với cánh chủ “hòa” (đầu hàng thật sự), như đã phân tích!
Đó còn là bi kịch thuộc về bản chất chế độ quân chủ phong kiến, ở việc truyền ngôi, tranh giành ngai vàng trong đế hệ, bất chấp số phận nhân dân và vận nước! Loại bi kịch này đâu phải chỉ diễn ra dưới triều Nguyễn, mà suốt các triều đại phong kiến ở nước ta và trên thế giới!
Vả lại, đó còn là bi kịch thời chiến: quyết án trong tình trạng khẩn cấp (ngay thời dân chủ cũng có quyền ban bố về tình trạng khẩn cấp, không chấp nhận đối lập chính kiến).

III.

“Tổ quốc, vua, dân, đâu nặng hơn?”. Hỏi là để khẳng định câu trả lời đã rất nghìn xưa và mãi còn mới (6): “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Mạnh Tử). Lòng trung của Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến Triều đình Huế – kiên quyết chống giặc Pháp và bọn phản quốc – đã làm sáng chói chữ trung chân chính, rất cổ điển và rất truyền thống.
Chúng tôi đã viết: Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến yêu nước Triều đình Huế đã chọn lựa đúng trong bi kịch ở đỉnh điểm mâu thuẫn đối kháng phản quốc – ái quốc, 1883. Hai năm sau, ở điểm đỉnh tột độ của mâu thuẫn đối kháng địch – ta dữ dội hơn, họ cũng đã trả lời đúng câu hỏi: “xã tắc, quân, dân, thục trọng khinh?”, trong sự phân công cho đêm Kinh Đô Quật Khởi và trong việc giao nhiệm vụ sau đêm lịch sử 22 – 23.5 Ất dậu (chỉ từ 05.7.1885 đến 06.9.1885! Tiếc thay!).
Mọi việc gây ra nhiễu loạn “tư liệu” để nhằm tạo ra nghi vấn lịch sử về Nguyễn Văn Tường và về Tôn Thất Thuyết, như a dua theo luận điệu trong cáo thị bôi nhọ của tên thực dân khâm sứ Hector, cũng là của các tên vua quan tay sai Đồng Khánh, Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm, Phạm Phú Lâm chẳng hạn, đều xúc phạm đến lẽ công bằng, lòng yêu chuộng tính khoa học nghiêm minh của sử học, quyết tâm bảo vệ sự thật lịch sử và công lí.
Chẳng lẽ chỉ hơn một trăm năm sau, hậu thế quên mất phản ứng của sĩ phu và nhân dân trước lời cáo thị đó, như Phạm Phú Lâm, Phan Liêm… đã trả với giá đã vay, mặc dù Phạm Phú Lâm ít nhiều tỏ ra có lương tri [19]?
Vả lại, cứ để tồn tại tình trạng ấy là vô hình trung hay cố ý rơi vào luận điệu xuyên tạc của giạêc Pháp, bọn “tả đạo”, bọn chủ “hòa”, bọn Đại Hán bành trướng chủ nghĩa, lẫn những kẻ yêu nước nhiệt thành tuy thiển cận hoặc mắc mưu tuyên truyền bôi nhọ của chúng (7)!

TRẦN XUÂN AN

1. CHÚ THÍCH (cuối bài [endnote]) của bài BI KỊCH Ở ĐIỂM ĐỈNH MÂU THUẪN: 1883 – 1884, VÀ SỰ CHIẾN THẮNG CỦA NHÓM CHỦ CHIẾN YÊU NƯỚC

(1). Cao Huy Thuần, Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam (1857 – 1914), luận án tiến sĩ quốc gia, khoa chính trị học, Đại học Paris, bản dịch tiếng Việt, Đại học Vạn Hạnh xuất bản, Sài Gòn, 1973, tr. 318: “Theo điện tín của thống đốc Nam kì gửi bộ trưởng Bộ Hải ngoại Pháp ngày 10.12.1883: Hiệp Hòa “bày tỏ trong mọi lúc cảm tình của ông ta đối với Pháp”. Y đã bí mật phái chú là Tuy Lí vương đến Tòa Khâm sứ Pháp để hỏi De Champeaux là nếu trong trường hợp tai biến, y có được giúp đỡ không. Champeaux trả lời đồng ý và nhiệt thành khuyến khích y chống lại cận thần. Cuộc viếng thăm này làm Triều đình lo ngại, họ làm đủ điều để biết nội dung câu chuyện nhưng vô ích”.
(Thư khố Bộ Hải ngoại Pháp, kí hiệu A.30 (58), hộp 16).
Tham khảo: bản dịch mới của Nguyên Thuận, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2003, tr. 399 – 400.

(2). ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 150 – 151 xác định rõ: Kiến Phúc chết vì bệnh. Trước đó, nhà vua vốn bị bệnh, và tuy đã bình phục nhưng chưa được như cũ (vẫn chịu lễ chầu mừng, ban thưởng cho quần thần). Không lâu sau đó, vị vua trẻ này lại bị bệnh tái phát rất nguy kịch, dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, theo lời Miên Trí tố cáo sự câu kết của Hồng Hưu với Pháp (cả tội loạn luân có quả tang của Hồng Hưu), đồng thời căn cứ vào bản sớ của Tôn Thất Thuyết (Rheinart nằng nặc đòi lập Hồng Hưu làm vua…), và nghị xử của Tôn nhân phủ, đình thần (ĐNTL.CB., tr. 176 – 178), người ta có thể thấy lô gích (logique) của sự việc như chúng tôi đã trình bày.

(3). Trần Trọng Kim nhận định về tác giả Hạnh Thục ca: “… Bà Lễ tần Nguyễn Nhược Thị [Bích] có thể biết đúng sự thực theo cái quan điểm của người mình bấy giờ” [!] (HTC., lời tựa Trần Trọng Kim, sđd., tr. X). Nhận định ấy, phải nói là sâu sắc: nhận thức sự thật lịch sử theo lăng kính riêng và lăng kính thời đại phong kiến. Theo Trần Trọng Kim, đó là quan điểm (:lăng kính) bảo hoàng. Ông ta cũng trình bày rõ, bản HTC. ông tìm được đã bị chép lại và chép sai nhiều chỗ. Trong lời tựa và ở phần chú thích, Trần Trọng Kim bị sức ép lộ liễu hoặc ngấm ngầm của cường quyền thực dân, nên đành phải cố tình xuyên tạc thêm. Vì thế, ít nhiều đã rơi vào mục đích “đập tan tành” uy tín Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, theo ý đồ của thực dân Pháp, tả đạo. Do đó, trừ đi mấy chỗ ấy, còn lại, những đoạn HTC. khẳng định nét tích cực (yêu nước, chống Pháp đến cùng …) của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã trở thành vô cùng giá trị, đạt mức xác tín cao. Và cũng với mức xác tín cao như vậy, đoạn HTC. viết về âm mưu của Rheinart và Hồng Hưu trong cái chết của Kiến Phúc (HTC., sđd., tr. 31 – 34). Xin xem kĩ ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 176 – 177.
Cần nói thêm: Trần Trọng Kim ít nhiều có tinh thần dân tộc, chống Pháp. Trong thời bị Pháp đô hộ, ông ta chỉ là một nhà giáo, học giả. Đến thời phát xít Nhật xâm lược, Trần Trọng Kim mới … “bị mời” làm thủ tướng!

(4). Xin xem lại chú thích (***) ở lời thưa đầu sách.

(5). Về bản án Ông Ích Khiêm, do Bộ Hình tuyên án, với các tội hình công vụ, thường sự (tùy tiện bắt lính kinh đô hộ tống; chiếm đất của dân để xây nhà riêng) ông đã phạm, và mức án (bị cách chức, phát lưu sung quân) ông phải chịu, một cách rất cụ thể, xin xem ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 163 – 164. Ngoài ra, Ông Ích Khiêm còn phạm tội khi quân, một tội không thể tha thứ, dưới chế độ phong kiến, nếu giai thoại “tất cả đều là chó” đúng với sự thật. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn rất dè dặt với các thứ giai thoại, hò vè… thời thực dân, tả đạo độc quyền tuyên truyền (phải đãi lọc các lượng thông tin ở các sáng tác dân gian hư cấu từ lịch sử, đãi lọc trên cơ sở các văn bản, văn kiện gốc đã được trích dẫn trong tư liệu chuẩn cứ là ĐNTL.CB. IV, V).

(6). Nói theo ông Nguyễn Xuân Quế (cố hiệu trưởng Trường PTCS. Triệu Phước, Triệu Phong, Quảng Trị) – ông Quế cũng nghe cha ông nói lại – , câu kinh điển ấy của Nho giáo đã được cụ Nguyễn Văn Tường trích, ghi dưới bài thơ như thể để chú thích, với hai chữ Mạnh Tử. Ông Nguyễn Xuân Quế còn nói thêm: “Xã tắc” đã bao gồm “dân”; còn “quân” hay “quân vương”, có khi đồng nhất với “dân”, với nước (“xã tắc”), như Hàm Nghi, có khi là tai họa, là nỗi nhục của Tổ quốc, của dân tộc, như Dục Đức, Hiệp Hòa. Dục Đức, Hiệp Hòa còn là tai họa, nỗi nhục của cả vương triều nhà Nguyễn nữa. Truất phế, thi hành án hai tên vua vô loại ấy, và cả Hồng Hưu, là làm sáng đẹp luật pháp nghiêm minh, bất vị thân của triều Nguyễn và góp phần làm bền vững triều Nguyễn bấy giờ (trước 06.9.1885), để cứu nước, cứu dân.

(7). Nhân đây, xin bàn thêm một khía cạnh, ấy là vấn đề lí luận trong lĩnh vực văn học dân gian: sáng tác và tiếp nhận (kể vè, nghe vè, và chép vè, đọc vè…).
Đối với các tác phẩm văn học dân gian nói chung, không thể không lưu ý một điều rất sơ đẳng là cần vận dụng luận điểm nghiên cứu xã hội: có bộ phận dân gian tiến bộ, sáng suốt; có bộ phận quần chúng lạc hậu, phản động, mù quáng; có bộ phận nhân dân trung gian, đứng giữa hai bộ phận kia. Không bao giờ có một thực thể xã hội thuần nhất; và sự phân hóa xã hội càng rõ trong những thời đoạn xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt với những lực lượng đối kháng quyết liệt. Và thực thể dân gian (cả tầng lớp thượng lưu, trí thức cũng thế) lại càng phức tạp theo hướng tiêu cực (lẫn lộn tốt – xấu, chính nghĩa – phi nghĩa, dân tộc – phản dân tộc…), một khi mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, giữa lực lượng yêu nước và giặc ngoaiï xâm (xét cả về mâu thuẫn đối kháng văn hoá, tôn giáo…) bị đẩy đến bên kia điểm đỉnh (cao trào của kịch tính – một thuật ngữ văn học), và cuối cùng lực lượng xâm lược, phản quốc, ngu dân thắng thế. Do đó, trong một tác phẩm văn học dân gian như vè Thất thủ kinh đô chẳng hạn, có những yếu tố mơ hồ, lẫn lộn, nhập nhằng trong nhận thức và phản ánh lịch sử, dẫn đến thái độ, tình cảm cũng thiếu sáng suốt… Vè Thất thủ kinh đô xuất hiện từ 1900 – 1914, sớm nhất là 15 năm sau điểm đỉnh tột độ là đêm 22 – 23.5 Ất dậu, 1885 (*).Đó là điều rất đáng lưu ý.
Cũng xin khẳng định rõ ràng hơn: Chúng tôi không vận dụng khái niệm mĩ học về bi kịch để phân tích nội dung tác phẩm vè Thất thủ kinh đô, vốn phản ánh sai lệch khá nhiều về sự kiện, nhân vật lịch sử, mà chỉ để giải thích hiện thực lịch sử, và cụ thể là tác động của bạo quyền thực dân trong việc gây nhiễu, làm sức ép lên dư luận một bộ phận quần chúng lẫn sáng tác của bộ phận quần chúng đó, ít ra là suốt 15 năm sau khi nhân dân ta hoàn toàn bị thực dân thống trị. Cũng rất cần phải có cái nhìn biện chứng về tâm lí các phân số quần chúng (quá trình tác động qua lại giữa các yếu tố, bộ phận…), về tâm lí sáng tạo văn học và truyền khẩu văn học dân gian (mâu thuẫn trong nhận thức, những điểm mù trong nhãn quan trước hiện thực, sự cưỡng bức của hiện thực một cách vô thức và hữu thức, sự mắc mưu tuyên truyền xen lẫn phản ứng chống lại tuyên truyền…).
Cho nên, vấn đề đặt ra là chỉ có thể đãi lọc những lượng thông tin xét thấy là xác thực mà thôi, trên cơ sở lấy ĐNTL.CB. IV, V (1847 – 06.9. 1885) và cả kỉ IV (1885 – 1888, với quan điểm yêu nước, chống Pháp, chống ngụy triều Đồng Khánh) làm chuẩn cứ.
Xin xem thêm: Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (TXA. biên soạn…).
(*) Xin phân biệt:
a. Bi kịch ở điểm đỉnh mâu thuẫn 1883 – 1884 và sự chiến thắng của nhóm chủ chiến yêu nước VỚI bi kịch ở điểm đỉnh tột độ của mâu thuẫn 22 – 23.5 Ất dậu (05.7.1885) và sự thất bại của nhóm chủ chiến yêu nước.
b. Bi kịch “tứ nguyệt tam vương”: 04 tháng lập 03 vua :
◘ Dục Dức (03 ngày lên ngôi, 16 – 20.6 Quý mùi [1883]).
◘ Hiệp Hoà (04 tháng, 21. 6 – 30.10 Quý mùi [1883]),
◘ Kiến Phúc (lên ngôi: 01.11 Quý mùi [1883]).
Lưu ý: Ngày Kiến Phúc chết: 10.6 Giáp thân [1884]; Dục Đức bị thi hành án sau 01 năm 03 tháng bị truất phế, chết vào ngày 06.9 Giáp thân [1884].


2. CƯỚC CHÚ (chú thích cuối trang [footnote]) của bài BI KỊCH Ở ĐIỂM ĐỈNH MÂU THUẪN: 1883 – 1884, VÀ SỰ CHIẾN THẮNG CỦA NHÓM CHỦ CHIẾN YÊU NƯỚC

[1] Đại Nam thực lục, chính biên, tập 35, Nxb. KHXH., 1975, tr. 198, 207, 231.
[2] ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 199.
[3] ĐNTL.CB., tập 32, Nxb. KHXH.,1975, tr. 133.
Xem thêm: Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, UB. KHXH. Thành ủy TP. HCM. xb., 1990, tr. 302;
[4] ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 200.
[5] ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 206.
[6] ĐNTL.CB, sđd., tập 32, tr. 102; tập 33, Nxb. KHXH., 1975, tr. 130 và 350.
[7] Delvaux, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.), số 1, 1941.
[8] ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 207.
[9] ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 206.
[10] Xem ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KH XH., 1976, tr. 172 – 173 và Hạnh Thục ca, Nxb. Tân Việt, 1950 [?], tr. 33 – 34.
[11] ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 200 – 201.
[12] ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 255 – 260; trích lời dẫn gián tiếp và trực tiếp theo điện tín báo cáo của phủ súy Pháp gửi Bộ Hải ngoại Pháp, xem: Trần Thị Thanh Thanh, “Nhìn lại việc phế lập ở Huế năm Qúy mùi (1883)”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học lịch sử, ĐHSP. TP.HCM., 20.6.1996, sđd., tr. 34 [trích lại nguyên văn lời dẫn, xin xem ghi chú (1), bổ sung cuối bài].
[13] Ưng Trình, Những người bạn cố đô Huế [BAVH., 1919], Nxb. TH., 1998, tập IV B, tr. 406).
[14] ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 243; tập 36, sđd., tr. 69; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (VNSL.), Nxb. VHTT., b. 1999, tr. 594.
[15] ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH., 1977, tr. 61 – 62 và Đại Nam liệt truyện, tập 3, Nxb. TH., 1993, tr. 163, tr. 203…
[16] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 176 – 177; Hạnh Thục ca, sđd., tr. 30 – 34.
[17] Hạnh Thục ca, sđd., tr. 33 ; xem thêm: Đại Nam liệt truyện, tập 3, sđd., tr. 77 –78 : tiểu sử NNTB.
[18] VNSL., sđd., b. 1964, tr. 554 – 555.
[19] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 197, 222; tập 38, Nxb. KHXH.,1978, tr. 12 -13.

TXA.

Bài “Bi kịch ở điểm đỉnh mâu thuẫn 1883 – 1884 và sự chiến thắng của nhóm chủ chiến yêu nước” này đã được đăng tải trên tạp chí Xưa & Nay (thuộc Hội KHLS. VN.), số 118 tháng 6.2002, tr. 18 – 19, xem tiếp tr. 23 – 24.
Ngày 09.8. 2003 (HB.3), nhuận sắc.




Bài thứ ba

TRẦN XUÂN AN

VỀ MỘT VÀI TRANG
ĐẢO NGƯỢC SỰ THẬT LỊCH SỬ
VÌ MỤC ĐÍCH TUYÊN TRUYỀN
TRONG VIỆT NAM VONG QUỐC SỬ


I.

Về mặt tình cảm sử học, đây là cả một nỗi đau lòng và đáng phiền trách. Tuy nhiên, để trả lại sự công bằng cho lịch sử, trên tinh thần khoa học khách quan, chúng ta không nên tránh né. Vết thương sử học cần được hội chẩn và phẫu thuật tập thể.
Bài viết này chỉ là một đề xuất.
Với sự giới hạn vấn đề, chúng tôi mạnh dạn tạm đúc kết khuynh hướng, chủ trương chính trị của Phan Bội Châu ở giai đoạn thành lập và hoạt động trong Duy tân hội, Quang phục hội. Qua đó, chúng tôi cũng muốn chỉ rõ căn nguyên, động cơ của cụ Phan và Lương Khải Siêu trong việc xuyên tạc bằng cách đảo ngược sự thật lịch sử về Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Từ Dũ. Ở đây, chưa nói đến việc Phan Bội Châu vừa có điểm đúng, vừa có chỗ sai khi đồng thời đả kích tình trạng đè nén dân quyền thời Tự Đức, lẫn đả kích Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp “mở lối cho giặc đến” [1] (1).

II.

1. Phan Bội Châu bị mắc mưu tuyên truyền bôi nhọ nhằm dập tắt phong trào Cần vương của Hector (khâm sứ thực dân Pháp), Đồng Khánh, Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm, Phạm Phú Lâm, và của hai cố đạo Puginier, Camelbeck cùng đồng bọn tả đạo trong Thiên Chúa giáo, sau khi Đất nước và triều đình hoàn toàn rơi vào tay giặc Pháp. Thế hệ cụ Phan còn bị ảnh hưởng ít nhiều do sự nhồi sọ bởi nội dung giảng dạy, có thể như bản thảo Đại Nam thực lục, chính biên, đệ lục kỉ (1885 – 1888), trong nhà trường thực dân nửa phong kiến (trường học ở phủ, huyện và Quốc tử giám). Đây chính là các nguyên nhân tạo ra sự hoang mang, rối nhiễu, tác hại khôn lường trong xã hội Việt Nam hồi đó.
Mặt khác, nhận thức về hiện thực lịch sử trong thực tế đời sống của Phan Bội Châu vẫn có nhiều sai sót. Cụ Phan sai lầm đến mức lẫn lộn chi tiết cụ thể nhất là cái chết của Phạm Thận Duật với cái chết của Nguyễn Văn Tường; thậm chí cụ không biết chính xác ba tỉnh Miền tây Nam kì mất vào năm nào! v.v… Những sai sót ấy là do sự bưng bít thông tin, bị ngăn cấm liên lạc… Trong điều kiện bị thực dân độc quyền thao túng, lũng đoạn, xuyên tạc thông tin và bị chúng hạn chế liên lạc như thế, làm sao cụ Phan hiểu và biết được chút gì đúng với sự thật về những nhân vật lịch sử trong triều đình Huế trước ngày 06.9.1885! Những nhân vật lịch sử ấy lại cách thế hệ cụ Phan đến bốn, năm mươi tuổi! Huế lại xa Nghệ An tít mù tắp! Nói như vậy, phải thấy ở Việt Nam vong quốc sử những ghi nhận không sai sót đáng kể về phong trào Cần Vương (2), một phong trào do chính sĩ phu, nông dân trực tiếp tiến hành; riêng khía cạnh sưu thuế (20 loại thuế của thực dân Pháp với sự tàn ác của chúng) là vấn đề sát sườn, nhân dân xứ Nghệ và bản thân cụ Phan cũng phải gánh chịu, thì không thể sai sót được. Phong trào nhân dân chống sưu thuế nặng nề dậy lên vào năm 1908 ở Trung kì là một minh chứng… Từ đó, với cái nhìn tổng thể về Việt Nam vong quốc sử, có thể nói rộng ra, ngoài những nhận thức chính xác về bản chất thực dân nói chung và sự phản kháng của nhân dân nói chung, không phải người yêu nước, nhiệt tâm cứu nước là không sai sót về kiến thức lịch sử, mà thậm chí vẫn sai sót nghiêm trọng nữa là đằng khác, và có lắm người sai sót mãi cho đến cuối đời!
Từ sai sót đến đảo ngược sự thật lịch sử về Nguyễn Văn Tường… là do một thủ đoạn chính trị.

2. Phan Bội Châu chủ trương bảo hoàng, tôn quân, trung quân như một thủ đoạn: tôn phù Cường Để (Nguyễn Phúc Hồng Dân), hậu duệ của hoàng tử Cảnh (tín đồ Thiên Chúa giáo) [2] (3). Phan Bội Châu cố ra sức tạo lại uy tín cho hoàng tộc triều Nguyễn vốn bị Dục Đức, Hiệp Hòa, Hồng Hưu… làm sứt mẻ. Vì vậy, cụ quy hết tội làm mất nước là do các đại thần và do Từ Dũ! Ở điểm này, Phan Bội Châu “bảo hoàng hơn vua”! Cụ Phan còn kém xa vị vua yêu nước Thành Thái, mặc dù Thành Thái là con trai Dục Đức (bị Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết phế truất, do thân Pháp và thân tả đạo). Thành Thái đã bảo đảm được quyền trung thực cho Quốc sử quán, nên đã bảo đảm được sự thật lịch sử, đồng thời đã chứng tỏ được sự công minh của sử học (sử học bất vị thân, luật pháp bất vị thân), và như thế là giữ được uy tín cho vương triều Nguyễn.

3. Phan Bội Châu liên kết với một bộ phận linh mục, giáo dân trước khi xuất dương vào năm 1905 [3]. Tuy nhiên, chắc chắn không phải cụ Phan liên kết với Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam thuở bấy giờ, một “giáo hội” mà hàng giáo phẩm (chức sắc) cao cấp đều do cố đạo Pháp, Tây Ban Nha nắm giữ! Do mối liên kết đó, Phan Bội Châu đổ tội để đả kích trực tiếp Nguyễn Văn Tường, Từ Dũ, đả kích ám chỉ Nguyễn Phúc Thuyết (cụ Phan không gọi là Tôn Thất Thuyết hay Lê Thuyết). Và khi Phan Bội Châu đã sang Trung Hoa, cụ không một lần ghé thăm Tôn Thất Thuyết, mặc dù hoạt động nhiều năm gần nơi Tôn Thất Thuyết đang sống lưu vong [4].

4. Mọi người đều biết rõ khi Pháp chuẩn bị xâm lược Bắc Kì lần thứ hai, Nguyễn Văn Tường đã đại diện triều đình tiếp xúc với Đường Đình Canh (Chiêu thương cục) để liên minh với nhà Thanh, vào những tháng cuối năm 1881, đầu năm 1882. Nhưng sau đó, nhà Thanh Trung Hoa đã mưu toan và bộc lộ dã tâm cùng với Pháp xâu xé, chia đôi Bắc Kì, nên Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết buộc lòng phải thực hiện ngoại giao đối trọng, trung lập giữa hai nước xâm lược ấy. Đó là thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu” [5]. Và cuộc chiến tranh Pháp – Hoa ngã ngũ với sự thất bại về phía Trung Hoa.
Việc thực hiện ngoại giao đối trọng, trung lập giữa hai nước xâm lược Pháp – Hoa, với thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu”, không những khiến Pháp thù ghét, còn khiến những kẻ Đại Hán bành trướng chủ nghĩa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu không thể không căm hận. Thật ra, Pháp thù ghét là chuyện đã đành, còn chính những kẻ Đại Hán cam tâm xâu xé một nước láng giềng trước nạn thực dân da trắng đúng ra phải tự vấn lương tâm.
Phan Bội Châu còn có bút hiệu là Phan Thị Hán, nên không thể không đồng tình với Lương Khải Siêu để “chụp mũ” Nguyễn Văn Tường!

5. Phan Bội Châu bị chi phối bởi tư tưởng Đại Hán chủ nghĩa, bảo hoàng, nỗi hận chính biến Mậu tuất (1898) của Lương Khải Siêu (học trò của Khang Hữu Vi) [6]. Lương Khải Siêu đã trút nỗi hận của mình, từ thái hậu Từ Hi và Viên Thế Khải sang hai hình tượng văn sử bất phân đã bị bóp méo theo ý đồ chủ quan là thái hậu Từ Dũ và Nguyễn Văn Tường, nhằm mục đích ám chỉ, để vận động cho cách mạng Trung Hoa ngay trong nước Trung Hoa. Lương Khải Siêu đã viết, đăng báo và in Việt Nam vong quốc sử để phát hành chủ yếu ở Trung Hoa, một phần ở Nhật Bản; số lượng bản sách đưa về Việt Nam chỉ 50 cuốn.
Ý tưởng miệt thị người Giao Chỉ, đề cao người Việt bị lai Hán một cách vong bản, thậm chí gọi hẳn người Kinh (Việt) là người Hán, chẳng lẽ là tư tưởng của Phan Bội Châu [7]? (4).

6. Phan Bội Châu hoạt động cứu nước theo phương châm của nhà chính trị bá đạo Machiavel: “cứu cánh (mục đích cuối cùng) biện minh cho phương tiện (thủ đoạn, vũ khí vật chất, tinh thần, bất kể xấu, tốt, thiện, ác, vinh, nhục)” [8].
Trong sáu nguyên nhân đó, chúng tôi cho rằng hai nguyên nhân 2, 3 và 4 là quan trọng, nguyên nhân 5 (bị chi phối bởi Lương Khải Siêu) là quyết định. Đúng hơn, chính Lương Khải Siêu đã viết phần lớn Việt Nam vong quốc sử (VNVQS.) với sự đồng tình của Phan Bội Châu như các học giả Trung Hoa đã bao năm khẳng định.
Từ chủ trương chính trị bảo hoàng, phương châm hoạt động chính trị machiaveliste và kiến thức lịch sử vừa bị sai lệch vừa “thực dụng” như thế, từ việc chịu tác động của các mối liên kết như thế, không lạ gì khi cụ Phan (và Lương Khải Siêu) viết về Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Từ Dũ… như vậy, trong Việt Nam vong quốc sử (VNVQS., xuất bản năm 1905).

III.

Tuy nhiên, cần thấy rõ là ở Việt Nam quốc sử khảo (VNQSK., xuất bản sau đó bốn năm, vào năm 1909), Phan Bội Châu quy tội làm mất nước là chỉ do Từ Dũ mà thôi [9]. Phải chăng Phan Bội Châu đã mặc nhiên phủ nhận những dòng chữ cụ viết về Nguyễn Văn Tường ở Việt Nam vong quốc sử, do sự phản hồi của công luận?
Phan Bội Châu không viết cụ thể, nhưng chúng ta vẫn thấy được đôi điều qua thái độ người đọc Việt Nam vong quốc sử trước khuynh hướng chính trị bảo hoàng, Đại Hán chủ nghĩa vốn là căn nguyên trực tiếp của vấn đề (thể hiện ở chương I của VNVQS.; và cũng ở VNVQS., sđd., tr. 61 – 62). Lưu Vĩnh Phúc là một người Hán, thuộc loại giặc Cờ, sau làm quan cho cả Thanh lẫn Việt, Nguyễn Thiện Thuật là quan chức Việt chống Pháp nhưng tiếc thay, lại nhận ấn đề đốc của nhà Thanh (5), chúng tôi không nói đến. Còn Phan Châu Trinh, cụ im lặng, không tán thành tôn quân kiểu đó? Riêng Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên), tuy cũng là người Hán nhưng vốn đề xướng chủ nghĩa tam dân, là tỏ thái độ rõ rệt:
“Tôn [Dật Tiên – TXA. chua thêm (ct.)] vì đã đọc qua bản Việt Nam vong quốc sử, ông biết trong óc tôi chưa thoát khỏi quân chủ tư tưởng, nên ông hết sức bài bác đảng quân chủ lập hiến là hư ngụy…” [10].
Đó là đọc chủ trương chính trị qua sử kí, một khi sử kí không còn là sử kí, mà đã bị biến thành phương tiện tuyên truyền!
Về sau, khi tâm sự với GS. Nguyễn Thiệu Lâu, vào khoảng thời gian gần cuối đời (trước 1940), Phan Bội Châu đã phủ nhận Việt Nam vong quốc sử (chắc chắn là chỉ các trang về Nguyễn Văn Tường, Từ Dũ, Tôn Thất Thuyết) và phủ nhận cả Ngục trung thư (bởi một phần nào đó), tuy vẫn xem hai cuốn sách ấy dẫu sao cũng có ích, với lời lẽ tỏ vẻ chua xót, tự ái:

“Tôi trót viết hai bộ sách đó
vì nó ghi tên tôi để lại…”
[11].

Đó là lúc cụ Phan giảng về Kinh Xuân thu, một mẫu mực về tín sử của nhà nho, cho GS. Nguyễn Thiệu Lâu, bất chợt Nguyễn Thiệu Lâu hỏi cụ Phan về Việt Nam vong quốc sử và Ngục trung thư! Trong tình huống ấy, cụ Phan không thể không tự ái, lại không thể không vớt vát tự ái bằng đôi câu trịch thượng!
Hồ Song cũng đã phê phán Việt Nam vong quốc sử khi giới thiệu Việt Nam quốc sử khảo:

“Việt Nam quốc sử khảo […] không phải là một tác phẩm trong đó những xúc động mãnh liệt, những thuyết lí về nhân sinh nhiều khi lấn át phần sử liệu như trong Việt Nam vong quốc sử. […] Việt Nam quốc sử khảo mang tính sử học rõ rệt [với những sai sót nhất định – TXA. ct.]” [12].

GS. Lương Duy Thứ cho Việt Nam vong quốc sử là một tác phẩm nặng phần hư cấu (fiction), sau khi chỉ rõ vai trò của Lương Khải Siêu trong việc viết và in tác phẩm ấy:

“Giá trị về mặt tư liệu lịch sử bị hạn chế. Giá trị thực của Việt Nam vong quốc sử là giá trị văn chương” [13].

Còn ý kiến của GS. Trần Văn Giàu, chúng tôi đã có lần viết: Dẫu sao GS. cũng đã gián tiếp phủ định, đả phá các dòng chữ trong vỏn vẹn hơn một trang sách và trong một đoạn khác, vốn viết sai lầm, xuyên tạc về Nguyễn Văn Tường, (và Tôn Thất Thuyết trong việc phế lập), ở Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu, Lương Khải Siêu [14]. Tuy nhiên, do GS. Trần Văn Giàu nhận thức không đúng về tinh thần chủ chiến của một nhà ngoại giao khéo léo nhưng vẫn cứng rắn là Nguyễn Văn Tường và tinh thần chủ chiến ở một nhà quân sự cứng rắn nhưng thiếu mềm dẻo là Tôn Thất Thuyết trong sự so sánh, nên đi đến đánh giá không chính xác. Hơn nữa, GS. Trần Văn Giàu cố ý không biết đến sự đánh tráo nhân vật trong vè Thất thủ Thuận An, mặc dù trong Đại Nam liệt truyện [15] đã ghi rõ: Nguyễn Trọng Hợp là người xé chăn vải trắng, viết lên đó chữ “Âu” để đầu hàng Pháp, chứ không phải là Nguyễn Văn Tường [16]! Nghiêm trọng nhất là GS. lại cố ý không biết tới hai bức mật dụ của Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về cho Nguyễn Văn Tường và hoàng tộc sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885) [17]!… Sao GS. lại phớt lờ đi tinh thần đấu tranh khẳng khái của Nguyễn Văn Tường trước kẻ thù đã thắng trận, với tên tay sai cơ hội Nguyễn Hữu Độ mà cả Hạnh Thục ca (HTC.) [18] (6) cũng ghi nhận? Chẳng lẽ GS. cố tình quên cả bản án cáo thị của De Courcy, De Champeaux và cả bản án chung thẩm của ngụy triều Đồng Khánh về Nguyễn Văn Tường (và Tôn Thất Thuyết, Trương Văn Đễ, Trần Xuân Soạn) [19]? Những cứ liệu này và nhiều cứ liệu khác về Nguyễn Văn Tường trong hai tháng “chia tách triều chính”, chúng tôi đã trích dẫn, ghi rõ xuất xứ, và đã phân tích, bình luận ở bài nghiên cứu Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885) của chúng tôi. Ở đây, tránh sự sa đà, xin chỉ nhắc lại như thế.
Cái chính là GS. Trần Văn Giàu đã có tham khảo Việt Nam vong quốc sử [20] nhưng hầu như phản bác lại Phan Bội Châu (thực ra do Lương Khải Siêu viết) ở những trang về Nguyễn Văn Tường… Dẫu vậy, GS. vẫn còn nặng lời!
Với bài nghiên cứu nhỏ, viết theo dạng phân tích từng chủ điểm nói trên, chúng tôi đã gián tiếp tranh luận, đính chính lại những gì GS. Trần Văn Giàu cố tình quên, cố ý sai lệch, hoặc thiếu sót, với tinh thần dân chủ trong học thuật.
Vấn đề ở đây vẫn đang là một vài trang đảo ngược sự thật lịch sử trong Việt Nam vong quốc sử mà GS. Trần Văn Giàu đã chứng minh là sai lạc, xuyên tạc, mặc dù GS. không chỉ ra trực tiếp đích danh Phan Bội Châu (và Lương Khải Siêu!).
Hơn nữa, trong giới sử học, giới nhà văn Nam, Bắc, 1954 – 1975, và cả trước đó cũng như sau này, mặc dù có nhiều lời khen chê, thậm chí dựng đứng chuyện bịa để căn cứ vào đó mà chỉ trích thậm tệ, nhưng chưa có ai viết về Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) một cách xuyên tạc bằng lối đảo ngược sự thật lịch sử như Phan Bội Châu (thực ra là do Lương Khải Siêu!). Nói gọn hơn, chỉ mỗi tác giả Việt Nam vong quốc sử viết ngược như vậy!

IV.

Chúng tôi trình bày nhận thức như trên không phải nhằm phủ định toàn bộ tác phẩm VNVQS., và để phủ định nhà yêu nước lớn, tác gia lớn Phan Bội Châu, mà chỉ cốt chỉ ra những hạn chế, sai sót nghiêm trọng và tai hại của cụ Phan. Vả lại, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã nhận định về Phan Bội Châu thật thấm thía: ““Vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn” chính là câu tự phê bình đời thất bại của Cụ [Phan]” [21], chúng ta còn nói thêm gì nữa (7)! Và chúng ta còn biết nói gì nữa, khi chính cụ Phan đã viết:
“Lời tự phán: Lịch sử của tôi, hoàn toàn là lịch sử thất bại. Nhưng sổ dĩ [kiểm điểm lại? – TXA. ct.] được cái thất bại đó, những chỗ tì vết rất rõ ràng, mà những chỗ có thể tự tín được, cũng không phải là không có. […] Một đời mưu việc gì, chỉ cốt hỏi ở nơi mục đích, cầu thu hiệu ở năm phút cuối cùng; đến thủ đoạn (8), phương châm tuy có lúc thay đổi cũng không kể. […] … Điều trên thường tự nghĩ là một chút lành có thể kể ra được. Biết ta chăng? Tội ta chăng? Đều thừa nhận cả” [22].
Nếu nói thêm, có lẽ phải khẳng định, đừng bao giờ quá mê tín vào một ai, cho dù đó là vĩ nhân, vì vĩ nhân vẫn là một con người với những hạn chế nhất định! Và phải tỉnh táo, sáng suốt, khoa học, bình tâm nhận chân rằng: Không một danh nhân nào, vĩ nhân nào, kể cả giáo chủ sáng lập tôn giáo nào, thật sự toàn bích. Nguyễn Thượng Hiền, người tuổi trẻ đã chứng kiến, đã khóc thương thái phó Nguyễn Văn Tường (“không quá Tây môn bi thái phó”), và nhiều chí sĩ khác, về sau, khi gia nhập Duy tân hội, Quang phục hội, đâu phải mọi điều đều tán thành theo cụ Phan! Họ chấp nhận “đại đồng, tiểu dị” để cùng dấn bước trên con đường cứu nước, cứu dân (9).
Chúng ta cũng thường thấy, mặc dù cùng mục đích giải phóng dân tộc, chống ngoại xâm, nhưng khác thế hệ, khác lập trường, khác chính kiến, những người yêu nước vì lí do tuyên truyền, họ có thể “chụp mũ” lẫn nhau! “Vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn (:cứu cánh biện minh cho phương tiện)” là thế! Nói như vậy, chúng tôi không có ý định đánh đồng bản chất, động cơ của mọi loại chính kiến, kể cả loại chính kiến của bọn tay sai, thực dân, phát xít, đế quốc, tả đạo.
Rốt lại, chúng tôi thấy cần phải có một tinh thần khoa học thực sự nghiêm minh, với quyết nghị cần công bố rộng khắp của hội nghị khoa học lịch sử để xử lí một vài trang đảo ngược sự thật lịch sử về Nguyễn Văn Tường… trong Việt Nam vong quốc sử. Hơn nữa, vẫn cần phải thanh lọc nốt những trang sách hiện đang tồn tại vốn bị nhiễm độc bởi sự tuyên truyền bôi nhọ của thực dân Pháp, tả đạo, bọn bành trướng Đại Hán và ngụy triều Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại… Không có gì bi kịch hơn, đau xót hơn khi ngẫm lại, nhận ra người yêu nước bị mắc mưu, nhiễm độc tuyên truyền của các loại giặc đó, có thể kể thêm loại chủ “hòa”, bảo hoàng ngu trung, để hạ bệ, bôi nhọ, tiếp tay giặc “đập tan tành” người yêu nước! (“Đập tan tành”, cách dùng từ của tên khâm sứ thực dân De Champeaux! (10)).
Là lớp cháu chắt của thế hệ cụ Phan, chúng tôi dám đâu vô lễ với tiền bối. Nhưng trong văn nghệ, học thuật, không có tinh thần phê phán và tự phê, sẽ không có sự tiến bộ, sẽ rơi vào trì trệ, tụt hậu, ngay cả trong sáng tác, nghiên cứu. Nội dung tự phê (Tự phán) cũng cần được người đương thời và hậu thế phê bình, góp ý! Ở khía cạnh cụ thể khác, né tránh vấn đề, khóa chặn tinh thần phê và tự phê, là nhẫn tâm trước nỗi đau lòng sử học, trước vấn nạn đáng phiền trách. Vấn nạn sử học ấy, tưởng vô hình trung đã giải quyết về cơ bản tuy còn nhiều hạn chế tai hại, một cách rộng rãi bằng quốc ngữ, từ 1921, lúc Việt Nam sử lược của nhà giáo, học giả Trần Trọng Kim xuất bản! Đến năm 1982, bảy năm sau khi Đất nước thống nhất, Việt Nam vong quốc sử lại bị tái bản trong tình trạng không được xử lí một cách khoa học và thích đáng. Thật đáng kinh ngạc, vào năm 2001, Trung tâm Ngôn ngữ Đông – Tây vẫn còn liên kết để tái bản Việt Nam vong quốc sử với một vài trang đảo ngược sự thật lịch sử như vậy cùng vài dòng phê phán mơ hồ, né tránh như bản 1982!

V.

Để kết thúc bài viết, xin nhấn mạnh lại hai điểm:
Về tính khoa học với các sử liệu gốc (CHÂU BẢN…) được trích dẫn đầy đủ của Đại Nam thực lục, chính biên, các kỉ IV (1847 – 1883), V (1883 – 1885), VI (1885 – 1888), chúng tôi đã hơn một lần khẳng định rõ. Chúng tôi xem đó là tư liệu chuẩn cứ để nghiên cứu giai đoạn lịch sử này và cụ thể là về Nguyễn Văn Tường. Những soạn phẩm biên khảo, các bài nghiên cứu của chúng tôi đã thể hiện đậm nét điều đó, trong khi chờ đợi toàn bộ phần châu bản triều Nguyễn thời chống Pháp và Cần vương (1858 – 1898), kho lưu trữ đặt tại TP.HCM., được dịch và công bố, trong khi chờ đợi Pháp và Vatican dịch và công bố trọn vẹn hồ sơ thời thực dân của họ cũng thuộc giai đoạn này. Mong các sử gia Pháp, sử gia Vatican hãy có thiện chí sử học và ý thức sử học khách quan cao hơn nữa, với sự chứng kiến của các sử gia trên thế giới! (11).
Nếu đặt một sự so sánh giữa Đại Nam thực lục IV, V, VI với Việt Nam vong quốc sử, sẽ thấy ra sự chênh lệch quá đáng về tư liệu trích dẫn. Tư liệu trích dẫn trong Việt Nam vong quốc sử là ở mức số không! Sử học là gì? Đơn giản nhất cũng là “nói có sách, mách có chứng”. Và tư liệu gốc (12) – ấy là bằng chứng pháp lí, phải được giám định thực nghiệm (niên đại giấy mực, bút tích…) – là yếu tố tiên quyết, còn mọi quan điểm bình giá (tùy theo ưu thế lẫn hạn chế của từng thời đại) vẫn là thứ yếu. Nói như thế về quan điểm bình giá, chúng tôi đã xác định: Đạo lí và công lí dân tộc (chủ nghĩa yêu nước, nhân nghĩa Việt Nam truyền thống – hiện đại) là vĩnh hằng. Phan Bội Châu (thực ra là do Lương Khải Siêu) viết sử nhưng không có một cứ liệu sử học nào cả, thậm chí không tham khảo một tài liệu nào cả, mà rất cảm tính, nhiệt tình đến mức chỉ thấy cái nhiệt tình cứu nước ấy và thủ đoạn chính trị, chứ không thấy có thiện tâm và trí tuệ khoa học (xin đặt trong giới hạn vấn đề và chỉ một vài trang VNVQS.). Chúng tôi đã có một bài viết ngắn về khía cạnh này.
Về thái độ đối với sử học, chúng tôi đã so sánh giữa vị vua yêu nước, bị giặc Pháp lưu đày tít tận hòn đảo Réunion giữa biển châu Phi là Thành Thái với nhà yêu nước, ông già Bến Ngự an trí tại kinh đô Huế là Phan Bội Châu, và lấy làm tiếc cho cụ Phan về một vài trang trong Việt Nam vong quốc sử !

TRẦN XUÂN AN

1. CHÚ THÍCH bài VỀ MỘT VÀI TRANG ĐẢO NGƯỢC SỰ THẬT LỊCH SỬ VÌ MỤC ĐÍCH TUYÊN TRUYỀN TRONG VIỆT NAM VONG QUỐC SỬ

(1). “Hoà” ước Nhâm tuất 1862 do Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp kí với Bonard (Pháp) và Guittierez (Tây Ban Nha).

(2). Phan Bội Châu không biết Lê Trung Đình khi khởi nghĩa, ông cử nhân trẻ tuổi này lại quờø quạng tôn phù Tuy Lí vương, một nhà thơ hoàng tộc đã câu kết với thực dân Pháp vào thời Hiệp Hòa nên bị đày vào Quảng Ngãi, mặc dù Tuy Lí vương từ chối. Tuy nhiên cụ Phan vẫn xác định đúng: chính tên phản bội Nguyễn Thân đã giết Lê Trung Đình theo lệnh Pháp.

(3). Nếu chúng tôi nhớ không nhầm, thì trong một cuốn sách, Bác Hồ đã phê phán rất đích đáng Phan Bội Châu: “Đuổi cọp [Pháp] cửa trước, rước hổ [Nhật, Tàu] cửa sau”.

(4). Hồi kí này được PBC. viết năm 1929, xuất bản lần đầu vào năm 1956 (sau khi cụ Phan chết [1940] đến 16 năm).

(5). Dư đảng Thái Bình thiên quốc đã biến tướng thành phỉ; Lưu Vĩnh Phúc đã mưu toan xâm lược Cao Bằng. Đối với Đất nước ta, Lưu Vĩnh Phúc là kẻ đã từng gây tội ác nhưng cũng là người có công lao (ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 191, 220, 379; tập 32, sđd., tr. 42; tập 33, sđd., tr. 26; tập 36, sđd., tr. 100…). Trong điều kiện quan quân Triều đình Huế bị bó buộc bởi các “hòa” ước, với sự cho phép của Tự Đức, Lưu Vĩnh Phúc được quan tướng nhà Nguyễn sử dụng để đánh Pháp.
Nguyễn Thiện Thuật nhận ấn đề đốc của nhà Thanh “nên không mấy được nhân dân hết lòng ủng hộ” (Chống xâm lăng, sđd., tr. 449; ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 253).
Chúng tôi hiểu vì sao GS. Trần Văn Giàu đề cao Lưu Vĩnh Phúc đến thế… “Sử học tuyên huấn” rất cần phải xem xét lại. Xin để sử học phải là sử học đúng nghĩa.

(6). Nguyễn Nhược Thị Bích, Hạnh Thục ca, Trần Trọng Kim [*] sưu tầm, Nxb. Tân Việt, 1950 [?].
[*] Trong lời tựa cho bộ sách Chống xâm lăng của mình, GS. Trần Văn Giàu cho biết: GS. rất chú ý tham khảo các tư liệu của những học giả mác-xít và tiến bộ như Trần Huy Liệu, Siếc-sơ-nô, Đào Duy Anh… nhưng GS. vẫn thừa nhận Trần Trọng Kim, cũng như Phan Trần Chúc, đã tìm được những tư liệu lịch sử có giá trị xác thực nhất định [phải hiểu là có vài mươi phần trăm sai lệch, nhất là những dòng Trần Trọng Kim, Phan Trần Chúc bôi nhọ nhân cách Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] (sđd., tr. 12).

(7). “Vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn” (cứu cánh biện minh cho phương tiện – Machiavel)! Với quan niệm đó, Phan Bội Châu (Phan Thị Hán, Phan Sào Nam) không phải là nhà khoa học lịch sử, cũng không phải là nhà văn đúng nghĩa! Về vận động chính trị, câu nhận định của cụ Huỳnh Thúc Kháng … (xin phép cụ Phan) là thật đích đáng! Tuy nhiên chúng tôi vẫn nghĩ rằng số loại trang như trên trong tác phẩm cụ Phan không nhiều.

(8). Thủ đoạn. Theo Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh, do chính Phan Bội Châu đề từ vào ngày 01.03.1931 (Nxb. Trường Thi, 1957, tr. 440): “Cái ngón làm việc, như ta thường nói mánh khoé”ù. Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nxb. KHXH. – Trung tâm Từ điển học, 1994, tr. 926): “Cách làm khôn khéo, thường là xảo trá, chỉ cốt sao cho đạt được mục đích riêng của mình”.

(9). Đông Kinh nghĩa thục, một tổ chức của một số nhà yêu nước (cũng cùng lứa tuổi với cụ Phan Bội Châu hoặc trẻ hơn), nhưng lại do chính tên thông ngôn, tay sai của Pháp là Nguyễn Văn Vĩnh [1882 – 1936] (Đông Dương tạp chí) thảo điều lệ và đứng tên trong đơn xin chính quyền thực dân Pháp để thành lập. Phan Khôi (tuần báo Sông Hương, số 01, ngày 01.08.1936), và có lẽ cả Hoàng Đạo Thuý (Người và cảnh Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982), đều có ít nhiều nghi ngờ trò mật thám nhử mồi giăng câu của Nguyễn Văn Vĩnh, trong việc thành lập Đông Kinh nghĩa thục này. Khi Nguyễn Văn Vĩnh bị phá sản trong kinh doanh, phải đi tìm vàng ở Lào, rồi chết ở đấy (1936), Phan Bội Châu lại viết câu đối phúng điếu!?! Xin chép ra để khảo chứng tư liệu và tham khảo thêm về cụ Phan và về Nguyễn Văn Vĩnh:
“Duyên tương tri nhớ trước mười năm, xe tự do chung lái, sóng biển vui tai, mộng hồn há lẽ hững hờ, quang cảnh còn in mây Thuận tấn [cửa Thuận ở Huế – TXA. ct.].
Tài bác học trỗi trong hai nước, đàn ngôn luận phất cờ, làng văn mở mặt, công nghiệp tuy còn lở dở, thanh âm từng giạt gió Ba Lê [Paris – ct.]”.
(Dẫn theo: Hoàng Tiến, Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết thế kỉ 20, Nxb. Thanh Niên, 2003, tr. 64, 68, 69…).
[Đây là một công trình nghiên cứu tuy thuộc cấp Nhà nước nhưng vẫn có sự lệch lạc quan điểm về chữ quốc ngữ].

(10). Trích dẫn: “Hôm qua tôi đã tiếp kiến quan Thương bạc [Nguyễn Văn Tường; nhân cuộc thăm viếng ngoại giao vào dịp Tết Nguyên đán – TXA. ct.] ông đến báo cho tôi biết là ông đã từ chức thượng thư Ngoại giao… Tôi không ngờ việc vận động nhỏ của tôi [với Trần Tiễn Thành – TXA. ct., theo Y. Tsuboi] chống thượng thư đó lại có kết qủa nhanh chóng đến thế… Vì thấy rằng không thể mở rộng các mối quan hệ chính trị nếu cứ phải giao thiệp với quan Thương bạc mãi, tôi đã nghĩ phải buộc ông ta từ chức và thay ông ta bằng một người ít chống đối ảnh hưởng của ta hơn… Quan Thương bạc vẫn còn là thượng thư Bộ Hộ và thứ trưởng Viện Cơ mật. Với tư cách sau, ông vẫn còn có thể chống đối chúng ta. Muốn thoát nạn, ta còn phải đập ông ta tan tành cả ở phía ấy”.
(Lưu trữ AOM. Aix. Amireaux 12923; Champeaux, đại biện tại Huế gởi thống đốc Nam kì; Huế, ngày 6.2.1881. Dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 270).
Trích dẫn đối chiếu:
“Lại còn nói rằng, người nước Pháp rất ghét viên Bạc thần trước là Nguyễn Văn Tường, tất rồi sẽ dùng thế lực cưỡng bách truất thoái để đẩy đi xa; vậy câu nói này là nói thế nào?
Ôi! Người làm tôi ai cũng vì chủ nấy: Nguyễn Văn Tường giúp vì nước nhà, cũng tức như viên sứ Pháp giúp vì nước Pháp; cái đạo làm tôi tất phải như thế, có gì mà đáng ghét? Trước kia viên ấy tuy sung chức ở Thương bạc, cùng với ngày nay tuy đã giải nhiệm, song phàm việc gì đều có quan đại thần hiệp thương bàn rồi tâu lên mới quyết định, viên ấy có thể nào độc đoán để ngăn trở việc? Vả giả sử có thể làm độc đoán thì hạng bề tôi như vậy còn nước nào mà chẳng thích dùng? Tưởng nước Pháp cũng nên ban thưởng để khuyến khích cho những kẻ làm tôi trong thiên hạ và để gương đời sau vậy. Như Hán Cao Tổ phong cho Quý Bố và chém Định Công, Tống Thái Tổ phong tặng cho Hàn Thông và truất phế Ngạn Thăng, như thế mới hợp cái đạo trị nước, chứ có khi nào lại xua đuổi bỏ đi! Nếu [truất thoái, không trọng đãi – ct.] như thế thì bao nhiêu kẻ làm tôi tha thiết vì vua mình cũng đuổi bỏ cả hay sao? Và còn lấy gì mà tỏ sự khuyến trừng? Vậy quyết nhiên không có lẽ ấy”.
(Dụ của Tự Đức, ngày 19.5 âl., TĐ. 34 [1881], trích từ: Thơ văn Tự Đức, tập II, Ngự chế văn tam tập, bài “Đuổi viên hành nhân Nguyễn Hoằng” (linh mục), Nxb. Thuận Hóa, 1996, tr. 176 – 177).
[Đâu là công lí đối với bọn thực dân xưa nay? TXA.].

(11). Trong lời giới thiệu cuốn sách Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (của Yoshiharu Tsuboi, do UB. KHXH. Thành ủy TP.HCM. xb., 1990), GS. Trần Văn Giàu viết: “… cái kho châu bản đồ sộ và quý giá có lẽ còn quan trọng, căn bản hơn là tư liệu của Bộ Hải quân và Bộ Thuộc địa Pháp nữa. […] Không khai thác châu bản một cách triệt để mà chỉ bằng vào các hạng người Pháp phần lớn thuộc quân xâm lược hay chuẩn bị xâm lược, thì làm sao biết rõ, biết đúng một thời kì lịch sử “mấu chốt” của nước nhà, làm sao đánh giá các nhân vật chính xác?” (sđd., tr. 12).
Hiện nay, toàn bộ Châu bản triều Nguyễn chưa được công bố trọn vẹn. Cho đến thời điểm này, chỉ có các tài liệu thống kê, tóm lược, trích dịch:
-+++ Tổng mục lục châu bản triều Nguyễn, do Uỷ ban Dịch thuật sử liệu Viện Đại học Huế (trước 1975) thống kê, phân loại, tài liệu đánh máy, hiện lưu trữ tại Thư viện KHXH. TP.HCM..
-+++ Mục lục châu bản triều Nguyễn, do Cục Lưu trữ Nhà nước, Viện Đại học Huế xb. trước 1975; Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản (hai tập, triều Gia Long, nửa đầu triều Minh Mạng), 1998;
-+++ Châu bản triều Tự Đức (1847 – 1883), Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát tuyển chọn và dịch, Ban Văn học thuộc Viện KHXH. TP.HCM. in ronéo, 1979. Tài liệu này vừa được Trung tâm Nghiên cứu Quốc học chỉnh lí (nhưng lại chỉ “tuyển chọn và lược thuật”!), Nxb. Văn Học xuất bản trong tháng 5.2003. Rất tiếc, trong các năm có nhiều sự kiện rất quan trọng (chẳng hạn, 1881 – 1883, Pháp chuẩn bị rồi thực sự đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai, Nguyễn Văn Tường đại diện cho triều đình nước ta liên minh với nhà Thanh, Trung Hoa…), lại để thiếu sót, không có một trang châu bản nào liên quan, đề cập đến. Nói cụ thể hơn, năm 1881, chỉ có hai tiểu mục về tiễu phỉ và về việc gửi người đi học cách sử dụng đại bác; hai năm 1882, 1883, chỉ có dăm tiểu mục về sách sử, chứ không có lấy một sự kiện nào về chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, xã hội cả (chưa kể sự nhầm lẫn, ghép vào châu bản thời Thành Thái; hẳn không phải vô ý?)! Theo lời giới thiệu ở những trang đầu sách, châu bản triều Tự Đức hiện còn đến 352 (ba trăm năm mươi hai) tập, mỗi tập gồm khoảng 600 (sáu trăm) trang chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp viết tay, và 600 tr. của mỗi tập có độ dày từ 06 (sáu) đến 10 (mười) xăng ti mét. Thế nhưng, cuốn “Châu bản triều Tự Đức (1847 – 1883), tuyển chọn và lược thuật” nói trên, chỉ có 288 (hai trăm tám mươi tám) trang in chữ quốc ngữ, cỡ 16 x 24 cm, kể cả lời nói đầu, lời giới thiệu và phần sách dẫn! Thật quá ít ỏi, sơ lược (cố nhiên là không được chú giải, phân tích!). Đáng tiếc là việc tuyển chọn cũng không tiêu biểu chút nào! Đâu rồi số châu bản 1882 – 1883?
Ngoài ra, còn châu bản các triều liên quan đến Nguyễn Văn Tường và ĐNTL.CB. IV, V, VI như triều Kiến Phúc (1884): 01 (một) tập; triều Đồng Khánh (9.1885 – 1888): 04 (bốn tập). Đó là chưa nói đến châu bản triều Thành Thái (1889 – 1907): 74 (bảy mươi bốn) tập; triều Duy Tân (1907 – 1916): 35 (ba mươi lăm tập)… Vẫn chưa được công bố!
Tuy nhiên, căn cứ vào phương pháp suy luận khoa học, chúng tôi đoan chắc rằng các châu bản được trích dẫn trong ĐNTL.CB. IV, V, VI vẫn là các văn bản tương đối có giá trị tiêu biểu (theo nguyên tắc sử dụng dẫn chứng). Từ đó, suy ra, kho châu bản không thể mâu thuẫn với ĐNTL.CB. (1847 – 1888), mà chỉ làm rõ hơn, mạnh mẽ hơn những gì còn quá rụt rè ở các phần sử thuộc các kỉ kể trên: tinh thần chống Pháp, chống tả đạo của nhân dân, sĩ phu và vua quan triều Nguyễn. Sự rụt rè ấy là do áp lực của thực dân Pháp, của tả đạo Thiên Chúa giáo!
Dĩ nhiên, tham khảo được châu bản vẫn là tốt nhất. Nhưng, rất đáng tiếc, cuốn “Châu bản triều Tự Đức” nói trên lại quá thiếu sót và tuyển chọn không tiêu biểu. Hoặc giả, châu bản đã bị thất tán những phần quan trọng, tiêu biểu đó?!? Chúng tôi không tin như vậy, và đã qua điện thoại, trực tiếp hỏi GS.TS. Mai Quốc Liên, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, người đã viết lời nói đầu cho cuốn sách. Ông trả lời rằng: “Châu bản về các năm 1881 – 1883 vẫn còn, tuy không đầy đủ. Sở dĩ không đưa vào sách số châu bản ấy là do người tuyển chọn. Phải nhờ GS. Trần Nghĩa trả lời cụ thể về vấn đề này”. Dẫu sao, trước tình trạng cuốn “Châu bản triều Tự Đức” như thế, trong khi chờ “Châu bản…” được bổ túc, chúng tôi đành vui lòng tự đối chiếu với cuốn sách của chúng tôi (TXA.), cũng cùng một cách thức biên soạn tương tự, nhưng lại lấy ĐNTL.CB. IV, V, VI làm chuẩn cứ, mặc dù đề tài chỉ nhắm đến một nhân vật cùng các sự kiện tiêu biểu cho thời đại ấy: “Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, ‘kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp’”. Rất tiếc là cuốn “Tiểu sử…” này chưa được xuất bản! Tuy vậy, với ĐNTL.CB. IV, V, VI, sẽ có sự bổ cứu, và nhất là để khỏi khiếm khuyết khi nhận định về Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) cùng các triều vua liên quan. Về giá trị ĐNTL.CB. IV, V, VI và tính thống nhất tương ứng theo từng giai đoạn phân kỉ của ba kỉ sử ấy với châu bản, chúng tôi đã trình bày bên trên và ở bài viết sau trong cuốn sách này.

(12). Xin xác định chuẩn xác thuật ngữ tư liệu gốc hay cụ thể hơn, ấy là sử liệu gốc. Không thể cho rằng Việt Nam vong quốc sử là sử liệu gốc về Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Từ Dũ, Phan Thanh Giản…, mà tác phẩm đó chỉ là sử liệu gốc về chính Phan Bội Châu (và Lương Khải Siêu). Vả lại, Phan Bội Châu cũng không phải là người chứng cùng thời, cùng việc (đồng thời, đồng sự) và tại chỗ về những nhân vật lịch sử kể trên. Đó chỉ là sơ lược trên hai nét nghĩa trong nhiều nét nghĩa khác của thuật ngữ tư liệu gốc.


2. CƯỚC CHÚ bài VỀ MỘT VÀI TRANG ĐẢO NGƯỢC SỰ THẬT LỊCH SỬ VÌ MỤC ĐÍCH TUYÊN TRUYỀN TRONG VIỆT NAM VONG QUỐC SỬ

[1] Phan Bội Châu, Những tác phẩm của Phan Bội Châu (NTPCPBC.), tập I, gồm Việt Nam vong quốc sử (VNVQS.) và Việt Nam quốc sử khảo (VNQSK.), Chương Thâu dịch, Hồ Song giới thiệu, Văn Tạo chủ biên… , Nxb. KHXH., 1982, tr. 73.
[2] Phan Bội Châu, Tự phán, Huỳnh Thúc Kháng đề tựa (1946), Nxb. Văn hoá – Thông tin tái bản, 2000, tr. 31, 35 – 37, 77, 104…
[3] Tự phán, sđd., tr. 42.
[4] Tự phán, sđd., tr. 55… Đối chiếu và xem thêm: Nguyễn Ngọc Hà, bài “Linh mục Đậu Quang Lĩnh và những hoạt động kính Chúa yêu nước trong Duy tân hội”, báo Người Công Giáo Việt Nam, số 9, ra ngày 01. 5. 1995; trích in lại trong cuốn Côn Đảo, ký sự và tư liệu, Ban Liên lạc cựu tù chính trị, Sở Văn hoá – thông tin và Nxb. Trẻ TP. HCM. liên kết biên soạn, xuất bản. Trong bài báo này, căn cứ trên những số liệu rút ra từ Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số tháng 4. 1994, Nguyễn Ngọc Hà cho biết, tổ chức Duy tân Giáo đồ hội của Thiên Chúa giáo Việt Nam thành lập từ năm 1903, và Duy tân Giáo đồ hội Nghệ – Tĩnh bắt đầu hoạt động vào tháng 4. 1904; Phan Bội Châu đã liên minh mật thiết với tổ chức này, từ thời điểm 1903. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa giáo vốn rất căm thù Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết.

[5] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, tập 35, Nxb. KHXH., 1975, tr. 61 – 62, 90 – 91; tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr.127 và tr.174. Xem thêm chú thích (7) của bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05.7.1885”.
[6] Tự phán, sđd., tr. 56 – 59…
[7] NTPCPBC., Việt Nam vong quốc sử, sđd., tr. 78; NTPCPBC., Việt Nam quốc sử khảo, sđd., tr. 182 – 184.
[8] Tự phán, sđd., tr. 12, 17…
[9] NTPCPBC., VNQSK., sđd., tr. 201; xem thêm tr. 148 – 149, tr. 305 – 306. Bổ khuyết tư liệu trích dẫn cho bài viết
“Về một vài trang đảo ngược sự thật lịch sử
vì mục đích tuyên truyền trong
Việt Nam vong quốc sử”,
cước chú số [9]:
“VIỆT NAM QUỐC SỬ KHẢO” (xuất bản năm 1909) là cuốn sách Phan Bội Châu viết sau cuốn “Việt Nam vong quốc sử” (cuốn sách mà nhiều học giả ngờ rằng Lương Khải Siêu viết [1905]). Dẫu sao, rõ ràng sau bốn năm, trước sự phản hồi của công luận thuở bấy giờ, nhà yêu nước Phan Bội Châu đã phải viết khác trước (khác với sự nhận thức hoặc sự bóp méo lịch sử theo phương châm chính trị bá đạo machiavelisme – “cứu cánh biện minh cho phương tiện” hay “vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn” – khi viết “Việt Nam vong quốc sử”). Ở “Việt Nam quốc sử khảo”, Phan Bội Châu quy tất cả lỗi mất nước là do một người “đầu sỏ”: thái hoàng thái hậu Từ Dũ!
Nguyên văn trích đoạn như sau:

“… Sở dĩ gọi là nước vì có chủ quyền, có nhân dân, có đất đai. Nếu ba thứ ấy còn thì nước còn là nước, ba thứ ấy mất thì không phải là nước nữa. Lấy một trong ba thứ ấy đem cho người ngoài thì gọi là giặc của nước; lấy cả ba thứ ấy đem tất cho người ngoài thì là đầu sỏ của giặc nước.
[…]
Nước ta, […] ta kể được ba người giặc của nước:
Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần và để cầu nhà Minh sắc phong cho, y đã cắt 59 thôn của châu Lộc Bình cho lệ thuộc vào phủ Tư Minh của nhà Minh.
Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, sợ nhà Minh hỏi tội, đã lấy hai châu Thạch Tích, Niêm Lãng và bốn động Cổ Sâm, Tư Lẫm, Kim Lặc, Liễu Cát hiến cho nhà Minh. Bản án kết tội bọn ấy nên ghi là: “Lấy đất đai của nước, nhân dân của nước, tặng người ngoài, tội đáng chém!” [1]. Chúng nó lấy lời gì để biện bạch được?
Còn một người nữa thì là một mẹ một con thuộc bản triều [2]. Vì ham sống yên phận đã đem một lúc cả ba thứ nói trên dâng cho lũ giặc. Thật là một tên giặc đầu sỏ lớn của nước ta”.

(Phan Bội Châu, Những tác phẩm Phan Bội Châu, tập I [gồm Việt Nam vong quốc sử & Việt Nam quốc sử khảo], Văn Tạo chủ biên và các dịch giả, Nxb. KHXH., 1982, tr. 200 – 201; xem thêm tr. 148 – 149, tr. 305 – 306.).

Lẽ ra, tôi đã trích đoạn trên để đưa vào bài viết đã nêu, trong cuốn “Nguyễn Văn Tường, ‘những người trung nghĩa từ xưa tưởng không hơn được’” này, nhưng thấy chỉ cần dẫn chứng gián tiếp là đã đầy đủ; vả lại, bài viết là một bài báo, cần phải ngắn gọn, nên không thể trích dẫn nhiều.
Nhân đây, cũng xin khẳng định lại một lần nữa:
Thật ra, Phan Bội Châu quy tất cả lỗi làm mất nước cho Từ Dũ cũng không thể hoàn toàn đúng với sự thật lịch sử. Chẳng qua Phan Bội Châu vừa tránh sự phản hồi phê phán của công luận nhưng đồng thời vẫn muốn chạy tội cho hoàng tộc Nguyễn, cụ thể là chạy tội cho Dục Đức, Hiệp Hoà, Tuy Lý vương, Hồng Tu, Hồng Sâm, và vô hình trung cũng chạy tội bớt tội cho Trần Tiễn Thành. Ai cũng biết Từ Dũ có họ Phạm, không phải thuộc huyết thống hoàng tộc Nguyễn, trong khi Phan Bội Châu đang tôn phù hậu duệ nhà Nguyễn: Cường Để (đích tằng tôn của hoàng tử Cảnh)!
Nhà yêu nước, tác gia lớn Phan Bội Châu không phải không có những sai sót, ngộ nhận trong kiến thức lịch sử; huống nữa, vì cứu cánh là cứu nước khỏi hoạ thực dân Pháp, cụ Phan bất chấp và không từ chối cả thủ đoạn xuyên tạc lịch sử (“cứu cánh biện minh cho phương tiện!”)! Đó là sự sai lầm, rất đáng tiếc của Phan Bội Châu. Và chính vì thế, cụ Phan đã tự kiểm điểm rằng, phương châm “vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn” của Machiaveli mà cụ Phan (và Lương Khải Siêu) vận dụng, chính là một trong những nguyên nhân thất bại trên con đường cách mạng, cứu nước. Xin vui lòng xem kĩ những bài viết trong cuốn sách, và xem thêm các cuốn sách, tập sách khác của tác giả cùng một đề tài.
Ở đây, tôi chỉ xin nhắc lại một điều đã viết trong nội dung chính của cuốn sách.

(*) “Hạ 14 chữ đó, thì bọn ấy cũng tự thấy là không oan” (Lời phê [của Hoàng Trọng Mậu – TXA. chua thêm]). Ở đây, tôi (TXA.) không bàn đến hai nhân vật lịch sử này. Xin vui lòng xem: Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi), Đại Việt sử ký toàn thư (các sử gia thuộc sử viện, sử vụ từ triều Trần đến Lê trung hưng, 1697), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1884).
(**) Tức là Từ Dũ và Tự Đức (hai mẹ con). Đây là chú thích của người dịch (PGS. Chương Thâu). Theo tôi (TXA.), căn cứ vào hai chữ “một người” của câu trên, Phan Bội Châu tuy không nêu đích danh nhưng vẫn xác định rất rõ, là đề cập về Từ Dũ. Đoạn PBC. viết về Từ Dũ này tôi mạn phép in đậm + nghiêng.
05. 06. HB 4 (2004).
TXA.
[10] Tự phán, sđd., tr. 77.
[11] Nguyên văn lời cụ Phan, xem: Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, Nxb. Mũi Cà Mau, 1994, tr. 12.
[12] NTPCPBC., VNQSK., sđd., tr. 149.
[13] Từ điển văn học (TĐVH.), tập II, Nxb. KHXH., 1984, tr. 548.
[14] Xem: Chống xâm lăng (CXL.), [Nxb. Xây Dựng, 1956 – 1957], Nxb. TP.HCM. tái bản, 2001, tr. 316 – 319, 547, 549 – 567…
[15] Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), tập 3, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 125.
[16] CXL., sđd., tr. 432.
[17] Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 225 – 228.
[18] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 236 – 237; Nguyễn Nhược Thị Bích, Hạnh Thục ca (HTC.), Trần Trọng Kim sưu tầm, Nxb. Tân Việt, 1950 [?], tr. 48.
[19] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 247; tập 37, sđd., tr. 35.
[20] Chống xâm lăng (CXL.), sđd., tr. 585 – 586…
[21] Tự Phán , sđd., tr. 12.
[22] Tự phán, sđd., tr. 17, 18.

TXA.




Bài thứ tư

TRẦN XUÂN AN

CÁCH VIẾT SỬ THEO TIÊU CHÍ NGƯỢC Ở
ĐẠI NAM THỰC LỤC CHÍNH BIÊN KỈ ĐỆ LỤC
VÀ CÁCH VIẾT SỬ XUYÊN TẠC BẰNG
SỰ ĐẢO NGƯỢC SỰ THẬT LỊCH SỬ
Ở MỘT VÀI TRANG TRONG
VIỆT NAM VONG QUỐC SỬ


I.

Đây là một vấn đề sử học rất đặc biệt trong tiến trình sử học ở nước ta từ xưa đến nay. Hiện tượng này chỉ nẩy sinh ở thời đoạn dân tộc ta bị rơi vào cảnh mất nước dưới ách xâm lược của thực dân Pháp và tả đạo trong Thiên Chúa giáo. Những tồn đọng từ cuối thế kỉ XIX đến nay vẫn chưa được giải quyết rốt ráo một cách thực sự khoa học, bởi chủ nghĩa thực dân cũ đã cáo chung lại biến tướng thành chủ nghĩa thực dân mới, và Thiên Chúa giáo vẫn là một thực thể “giành” được sự hợp pháp có tổ chức ngay dưới chế độ xã hội chủ nghĩa! Mặc dù Đất nước đang mở cửa, đổi mới, và vẫn bảo đảm chính sách đại đoàn kết, sử học cũng cứ phải vươn lên là khoa học lịch sử.
Dẫu sao cũng không thể muộn hơn được nữa! Hãy để sử học phải đích thực là sử học! Có như thế, đại đoàn kết mới thực sự bền vững, đổi mới, mở cửa mới thành công.
Trong ý hướng đó, chúng tôi xin được đưa ra một vấn nạn cụ thể, đã ghi rõ thành đầu đề của bài viết. Bài viết này có đoạn sẽ được trình bày một cách khái quát. Tư liệu sẽ được trích dẫn nguyên văn khi thật cần thiết; còn lại, các cứ liệu ở dạng lời dẫn gián tiếp hoặc đề nghị xem thêm, sẽ có chú thích cụ thể, đúng nguyên tắc khoa học, để tiện tra cứu.

II.

1. Về lập trường, quan điểm viết sử của Quốc sử quán triều Nguyễn trước và sau thời điểm Nguyễn Văn Tường bị lưu đày:

Lập trường, quan điểm viết sử ấy, trước và sau thời điểm nói trên, về cơ bản có sự đối lập, trái ngược lẫn nhau, thể hiện ở Thực lục qua hai kỉ IV (1847 – 1883), V (1883 – 1885) và ở kỉ VI (1885 – 1888). Chúng tôi đã căn cứ vào hai bản phàm lệ của kỉ V, kỉ VI và chủ yếu căn cứ vào hai đoạn xác định thời điểm phân kỉ ở hai kỉ ấy, mà về cơ bản là hai đoạn ấy giống hệt nhau (cùng khẳng định một vấn đề), để minh định.
Đoạn trích phàm lệ phụ biên của kỉ đệ ngũ:

“Từ ngày 23 tháng 5 năm Hàm Nghi thứ nhất, sau khi kinh thành có việc [:Kinh Đô Quật khởi và thất thủ – TXA. ct.], đến trước ngày mồng 10 tháng 8, xuất đế (Hàm Nghi) đã dời ra ngoài rồi, trong triều đình và ngoài các tỉnh không biết lệ thuộc vào đâu; và từ sau ngày mồng 10 tháng [8 âm lịch – ct.] ấy đến cuối tháng 9, vua Cảnh tông Thuần hoàng đế ta (Đồng Khánh) dẫu đã nối ngôi vua mà tuyên bố bảo dụ, nhưng trong nước còn chưa biết, niên hiệu vẫn chép là Hàm Nghi. Vả, phương nam, phương bắc đều vâng dụ vua Hàm Nghi, dấy quân cần vương; những kẻ khởi sự [:khởi nghĩa – ct.] đều nắm [Dụ Cần vương 02.6 Ất dậu – ct.] làm cớ để khởi binh. Còn từ sau ngày 01 tháng 10 năm Ất dậu (1885), niên hiệu Đồng Khánh, ngôi lớn đã ổn định lâu rồi; nếu kẻ nào còn dám làm hồ đồ thì đến kỷ thứ 6, sẽ chép làm nghịch” [1].

Đoạn trích phàm lệ của kỉ đệ lục:

“Phàm lệ phụ biên ở kỷ đệ ngũ, trong đó có một điều chép rõ: từ ngày 23 tháng 5 năm Hàm Nghi nguyên niên, sau khi kinh thành có việc [23.5 Ất dậu (1885] – ct.], đến ngày 10 tháng 8 trở về trước, xe vua dời đi, trong, ngoài không hệ thuộc được; và tự ngày 10 tháng [8 âm lịch – ct.] ấy trở về sau đến cuối tháng 9, Cảnh tông Thuần hoàng đế ta [:Đồng Khánh – TXA. ct.] tuy đã nối ngôi, nhưng tuyên bố dụ bảo, sợ chưa biết được khắp, niên hiệu vẫn còn chép là Hàm Nghi; về việc Nam – Bắc có vâng theo dụ của vua Hàm Nghi, mà khởi việc cần vương thì đều hãy chép làm “khởi binh” [:khởi nghĩa – ct.], để có cớ mà nói. Còn tự mồng 01 tháng 10 năm Đồng Khánh Ất dậu [1885 – ct.] trở về sau, ngôi lớn định đã lâu, dụ bảo chắc đã biết khắp cả, mà còn làm liều, thì ở kỷ đệ lục kỷ sẽ lại chép là nghịch. [Quốc sử quán – ct.] đã được chuẩn cho lục ra để chép vào.
Nay hai tháng 8 và 9 năm Hàm Nghi nguyên niên [tức là tháng 8 và tháng 9 âm lịch, năm Ất dậu (1885) – TXA. ct.], là còn thuộc vào phận tháng của kỷ ấy, cũng vẫn theo thế chép là khởi binh; còn từ mồng 1 tháng 10, là năm Đồng Khánh Ất dậu trở về sau, thì mới chép là nghịch” [2].

Hai tháng 8 và 9 âm lịch, Ất dậu (1885), ở triều đình, vua ngụy Đồng Khánh đã hoàn toàn bộc lộ bản chất phản quốc. Quyển thứ nhất của kỉ đệ lục (ĐNTL.CB., tập 37, sđd., từ tr. 22 đến tr. 59) đã chép rất rõ sự thật lịch sử ấy.
Trên cơ sở đó, việc xác định là rất rạch ròi, minh bạch: chính triều (1847 – 06.9.1885); ngụy triều (06.9.1885 – 1888…).

a. Chính triều: lập trường, quan điểm yêu nước, chống Pháp, chống tả đạo Thiên Chúa giáo; và ít nhiều xen lẫn lập trường, quan điểm bảo hoàng ngu trung trong sự kiện tứ tuyệt tam vương và các bi kịch khác ở điểm đỉnh mâu thuẫn đối kháng. Lập trường, quan điểm này thể hiện ở hai kỉ: kỉ IV, kỉ V (1847 – 06.9.1885, ngày Nguyễn Văn Tường bị Pháp lưu đày).

b. Ngụy triều: lập trường, quan điểm của ngụy triều Đồng Khánh, nịnh hót Pháp, nịnh hót tả đạo Thiên Chúa giáo, và bôi nhọ người chống Pháp, chống tả đạo Thiên Chúa giáo; đồng thời cũng là quan điểm vừa sử dụng bọn tả đạo Thiên Chúa giáo ở các địa phương để đánh dẹp phong trào Cần vương, vừa phê phán chính bọn tả đạo Thiên Chúa giáo ấy đang manh tâm phục thù, cướp chính quyền ở phủ, huyện, làm suy yếu ngụy quyền Đồng Khánh bù nhìn. Lập trường, quan điểm này thể hiện ở kỉ VI (12.9.1885 – 1888…).

Ở Đại Nam thực lục chính biên (ba kỉ IV, V, VI) không có sự đảo ngược sự thật lịch sử. Nhưng rõ ràng là riêng ở kỉ VI (12.9.1885 – 1888), Quốc sử quán triều Nguyễn đã thể hiện cách đánh giá sự thật liïch sử theo tiêu chí ngược, trái nghịch với chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, trái nghịch với công lí của nhân loại về độc lập dân tộc và chủ quyền Đất nước.

2. Phân biệt cách viết Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu và cách viết Đại Nam thực lục chính biên kỉ đệ lục của Quốc sử quán triều Nguyễn:

Xin phân biệt rõ: cách viết sử xuyên tạc bằng sự đảo ngược sự thật lịch sử với cách viết sử có đánh giá sự thật lịch sử (gồm cả nhân vật lịch sử) theo tiêu chí ngược.
Ở cách thứ nhất, người chống Pháp bị đảo ngược thành kẻ câu kết với Pháp. Qua Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu (thực ra là do Lương Khải Siêu…) viết về Từ Dũ, Nguyễn Văn Tường một cách phi khoa học, thiếu cứ liệu – tư liệu được sử dụng làm luận cứ, luận chứng với ghi chú xuất xứ một cách khoa học, cụ thể. Cụ Phan (hay Lương Khải Siêu) đã đổ tội làm mất nước là do hai người này và do Trần Tiễn Thành! Như thế, vô hình trung Phan Bội Châu (Lương Khải Siêu…) đã ngụy biện cho Dục Đức, Hiệp Hoà, Tuy Lý vương, Hồng Hưu, Nguyễn Hữu Độ… và phần nào cho Trần Tiễn Thành… (1). Cách viết sử không có cứ liệu – luận cứ, luận chứng – như thế là không thể chấp nhận được. Theo pháp luật xưa nay, cách viết ẩu tả, vu vơ kiểu đó là đã vi phạm vào tội vu khống trên sách báo (tội công khai sỉ nhục người khác bằng văn tự)!
Ở cách thứ hai, người chống Pháp là xấu (!!!), như Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết…; và cũng phi lí thay, người nịnh hót Pháp lại là tốt (!!!) như Đồng Khánh, Nguyễn Hữu Độ… Quốc sử quán triều Nguyễn đã thể hiện rõ cách viết này ở kỉ VI (12.9.1885 – 1888), đó là cách viết sử theo hệ giá trị phản quốc, nhằm lưu lại sự thật cho hậu thế minh xét. Hậu thế chính là các thế hệ hiện nay…
Xét về tính khoa học, Thực lục về các kỉ IV, V, VI đạt ở mức rất cao, trong sự so sánh đồng đại. Quốc sử quán triều Nguyễn trích dẫn khá đầy đủ các văn bản như:

a. quốc thư (Đồng Khánh gửi chính phủ Pháp, bôi nhọ Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết…); đặc biệt là mật dụ (sắc dụ gửi Nguyễn Văn Tường, sắc dụ gửi hoàng tộc, từ Tân Sở gửi về…);
b. chiếu, dụ, cáo thị (về phong trào Cần vương và vai trò của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết…);
c. bản án (De Courcy, De Champeaux kết án Nguyễn Văn Tường; ngụy triều Đồng Khánh kết án chung thẩm về Nguyễn Văn Tường và ba thành viên khác của nhóùm chủ chiến…);
d. tấu, sớ (Nguyễn Văn Tường và các quan tâu lên vua, thái hoàng thái hậu…).

Đó là các văn kiện của phía triều đình Đại Nam và phía thực dân Pháp. Ngoài ra, sử quan còn ghi chép (thuật sự) các vụ việc với diễn biến khá chi tiết mà vẫn cô đọng.
Quốc sử quán triều Nguyễn viết sử theo thể biên niên. Mỗi năm, theo trình tự mười hai tháng (năm có tháng nhuận: 13 tháng). Mỗi tháng có những vụ việc, sự kiện gì xét thấy phải chép, thì chép thành các tiểu mục. Phần lớn mỗi tiểu mục đều có một câu đề (tiêu đề), sau đó mới chép phần thuyết (diễn giải cụ thể), tức là nội dung của tiểu mục. Các tiểu mục quá ngắn gọn thì câu đề cùng phần thuyết là một. Ví dụ như ở đoạn trích dưới đây, câu đề chính là câu “Tôn Thất Thuyết lập “Phấn Nghĩa quân””, phần thuyết của tiểu mục là các câu còn lại.

“Tôn Thất Thuyết lập “Phấn Nghĩa quân”:
Lúc đó, Thuyết muốn lập lính chân tay riêng mình, bèn thương lượng với Nguyễn Văn Tường, nói rằng: “Tiến hành vào ngày 29 tháng 10 là quan trọng nhất” [ngày đảo chính, truất phế Hiệp Hoà – TXA. iđ. & ct.]. Hai viên quan này cùng với những đình thần đã dự biết trước nên ai nấy giao cho những người thân thuộc tham dự vào việc hiểu dụ các thân hào sĩ dân kết đảng làm theo. Lần này, qua chọn lọc số người trong đó mà ban thưởng. Ngoài ra tuy chưa được dự vào phái cử, nhưng đều vui lòng đáp ứng. Gần đây, nhiều người làm theo. Nay các binh ngạch thiếu nhiều, nên nhân tình hình ấy mà thu dụng họ; xin hội đồng Binh bộ xét tuyển dụng được bao nhiêu lính (nhưng không được khấu giản), chia làm vệ đội, lượng mà thiết lập quản suất, tùy số mộ được nhiều hay ít mà thưởng phẩm hàm, đặt tên là “Phấn Nghĩa quân”. Số quân đó được khao thưởng và đặt tên riêng; chiểu theo thứ tự, tuyển hai vệ tiên phong, nhưng vẫn lệ thuộc vào các viên quan mà hai vị thần đó ủy nhiệm cho để luyện tập và phân phái. Theo thời kỳ này thì hữu dụng, nên (Tường) cho phép.
Sau đó Thuyết cho Trần Xuân Soạn lãnh số quân ấy” [3].

Rất tiếc là sách in bản dịch ĐNTL.CB. đã được trình bày một cách đáng phàn nàn.
Hơn nữa, nhờ phương thức làm việc tập thể, mỗi thành viên Quốc sử quán đều phải lưu danh để chịu trách nhiệm, nên Thực lục (IV, V, VI) đạt được tính khách quan – một yếu tính hết sức cần thiết của sử học (2), (3). Rất tiếc, ở kỉ đệ lục (kỉ Đồng Khánh, 12.9.1885 – 1888), đó chỉ là ghi chép một cách khách quan theo lập trường, quan điểm ngụy triều nói trên.

3. Sử học theo tinh thần “luật pháp bất vị thân” và sử học thuộc loại “vấn mục đích bất vấn thủ đoạn”.

Chúng tôi đã có dịp so sánh thái độ sử học của Thành Thái với ý hướng viết sử của Phan Bội Châu. Tuy nhiên, tưởng cũng nên nhắc lại: Thành Thái vẫn kiên định ý thức sử học bất vị thân trước sự de dọa của thực dân Pháp. Vị vua yêu nước này không chịu ban dụ khắc in kỉ đệ lục (1885 – 1888), mặc dù đã được biên soạn xong, vì kỉ đệ lục này vốn rất nhục nhã đối với vương triều Nguyễn. Nhưng tai hại thay, kỉ đệ lục lại được khắc in vào năm Duy Tân thứ 3 (1909), và sau đó lại bị truyền bá khắp cả nước, dùng để giảng dạy trong nhà trường thực dân nửa phong kiến [4]; trong khi đó, kỉ đệ tứ (1847 – 1883), kỉ đệ ngũ (1883 – 1888) sau khi khắc in xong (khởi công: 1894, hoàn tất: 1902) lại bị cất vào kho sử, và phát hành rất hạn chế [5]. Đối với việc nghiên cứu lịch sử giai đoạn này, một vấn đề cực kì hệ trọng, rất cần lưu ý là ở đó!
Một lần nữa, xin nhấn mạnh điều này: Thành Thái bị thực dân Pháp lưu đày tít tận hòn đảo Réunion ở châu Phi; Phan Bội Châu lại an trí ngay tại kinh đô Huế!
Quyết định khắc in hay không là ở vua Thành Thái, chứ không phải ở Quốc sử quán. Đó là điều nhiều người quên lưu ý. Và mặt khác, lâu nay, người ta quá đề cao vai trò tổng tài, lại xem nhẹ các biên tu, toản tu, khảo hiệu, nhất là không đánh giá đúng mức cách biên soạn tập thể của Quốc sử quán (2), (3), (4).

4. Vấn đề quyết định là tư liệu gốc:

Vấn đề quan trọng nhất là tư liệu gốc được trích dẫn và quan điểm, lập trường viết sử của Quốc sử quán thể hiện rõ nét ở hai giai đoạn đối lập nhau của ba kỉ sử như đã phân tích ở trên. Nhưng dẫu lòng dạ người chép sử thế nào đi nữa, mạn phép giả định như thế, thì vấn đề vẫn là tư liệu gốc (cũng tương tự như bằng chứng pháp lí trước tòa án). Tất nhiên phải giám định tư liệu gốc bằng phương pháp khoa học thực nghiệm của thuở bấy giờ. Nói chung, không phải riêng trường hợp Nguyễn Văn Tường, từ vị quan yêu nước, chống Pháp cho đến cả bọn kẻ cướp (thực dân), kẻ đồng lõa (tay sai), và cả hoàng thân quốc thích, tất cả đều phải cúi đầu công nhận trước nhiều bằng chứng (tư liệu gốc) và nhiều nhân chứng về mọi sự thật lịch sử (sử quan; và người đọc đương thời như hoàng tộc, đình thần, các quan ở tỉnh, huyện…).
Chúng tôi đã chú thích ở một bài viết: Xin xác định chuẩn xác thuật ngữ tư liệu gốc, hay cụ thể hơn, ấy là sử liệu gốc. Không thể cho rằng Việt Nam vong quốc sử là sử liệu gốc về Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Từ Dũ, Phan Thanh Giản…, mà tác phẩm đó chỉ là sử liệu gốc về chính Phan Bội Châu (và Lương Khải Siêu). Nói rõ hơn, Việt Nam vong quốc sử thể hiện một khía cạnh con người Phan Bội Châu (hoặc một phần nào con người Lương Khải Siêu) về kiến thức lịch sử, về quan niệm, thái độ chính trị, sử học mà chính cụ Phan đã tự thú nhận: machiaveliste!…. Vả lại, Phan Bội Châu cũng không phải là người chứng cùng thời, cùng việc (đồng thời, đồng sự) và tại chỗ về những nhân vật lịch sử kể trên…. Đó chỉ là sơ lược trên hai nét nghĩa trong nhiều nét nghĩa khác của thuật ngữ tư liệu gốc.
5. Để tìm ra đáp số lịch sử, không thể không thực hiện phương pháp đối chiếu các nguồn tư liệu gốc, các nguồn sách báo nghiên cứu lịch sử, và phương pháp loại suy:
Cuối cùng, với quan điểm, lập trường yêu nước và dân tộc của chúng ta, với cách nhìn khoa học, cụ thể – lịch sử, xin hãy đối chiếu ĐNTL.CB. IV, V, VI và VNVQS. với toàn bộ (hoặc ít ra cũng một phần nào đó) sách báo của thực dân và cố đạo đã viết theo nhãn quan và quyền lợi xâm lược của chúng thuở bấy giờ, đã xuất bản tại Pháp, tại La Mã, tại Việt Nam từ 1847 đến nay, 2002. Xin đơn cử: hãy đối chiếu với toàn bộ các số tạp chí Những người bạn cố đô Huế (Bulletin des amis du vieux Huế, 1914 – 1944)!
Xin được nhắc lại: mặc dù có nhiều lời khen chê, thậm chí dựng đứng chuyện bịa để căn cứ vào đó mà chỉ trích thậm tệ, nhưng chưa có ai viết về Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) một cách xuyên tạc bằng lối đảo ngược sự thật lịch sử như Phan Bội Châu (thực ra là do Lương Khải Siêu!). Nói gọn hơn, chỉ mỗi tác giả Việt Nam vong quốc sử viết ngược như vậy!
Và cũng nhắc lại: thử đối chiếu với cuốn sách đã sử dụng rất nhiều tư liệu chưa công bố trước đó của Pháp: Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa cùa GSTS. Yoshiharu Tsuboi. Cuốn sách này, do GS. Trần Văn Giàu viết lời tựa ở bản dịch ra tiếng Việt: “… cái kho châu bản đồ sộ và quý giá có lẽ còn quan trọng, căn bản hơn là tư liệu của Bộ Hải quân và Bộ Thuộc địa Pháp nữa. […] Không khai thác châu bản một cách triệt để mà chỉ bằng vào các hạng người Pháp phần lớn thuộc quân xâm lược hay chuẩn bị xâm lược, thì làm sao biết rõ, biết đúng một thời kì lịch sử “mấu chốt” của nước nhà, làm sao đánh giá các nhân vật chính xác?” [6]. Đó là lời GS. Trần Văn Giàu vào khoảng thời gian đầu thập niên 1990, chứ không phải lúc chưa tiếp cận được nhiều tư liệu gốc, trong đó Châu bản là quan trọng và cơ bản nhất. Châu bản cũng đã được trích dẫn khá đầy đủ trong Đại Nam thực lục, chính biên.
Toàn bộ châu bản từ 1847 đến 1888 và Đại Nam thực lục, chính biên IV, V, VI vẫn là tư liệu chuẩn cứ trong việc đối chiếu sử học, đối chiếu tư liệu gốc và vận dụng phương pháp loại suy.
Trên đây chỉ là nhận định khái quát chung trong một bài viết, nhưng chúng tôi nghĩ, là hết sức mấu chốt và căn bản.

III.

Rất tiếc là giai đoạn vừa qua và hiện tại, từ trước và sau thời điểm xảy ra biến động ở Đông Âu và Liên Xô cũ đến nay, quả thật có lắm vấn đề kì quái. Đó là thời đoạn mà khuynh hướng sử học ở nước ta chưa kịp khắc phục tính chất ấu trĩ “tả” khuynh, máy móc, thiếu cái nhìn biện chứng, không mở rộng tầm nhìn toàn cục để so sánh (các nước Á, Phi, Mỹ la tinh…), không xét đến tính lịch sử – cụ thể, bệnh sùng bái tư tưởng ngoại nhập, giáo điều chủ nghĩa, lại nặng phần tuyên huấn vì mục đích chính trị nhất thời (bóp méo để đả phong), hoặc lợi dụng sử học làm công cụ phục vụ cho “công tác mặt trận”! Đó là lúc chưa kịp khắc phục khuyết, nhược điểm như vừa liệt kê, thì các thế lực thân Pháp, thân tả đạo lại ngóc đầu dậy, thao túng, lũng đoạn cả văn nghệ, học thuật, nhất là trong sử học. Sự thao túng, lũng đoạn ấy đã và đang diễn ra với các thủ đoạn phục thù hèn hạ, đầy tính chất lưu manh trong việc làm sức ép, mua chuộc, đồng thời ra sức đảo ngược sự thật lịch sử! Nhìn trên sách báo hiện nay, ai cũng thấy bọn nội loạn, bọn tay sai của thực dân, tả đạo, kể cả bọn tả đạo người Pháp, đã được ca ngợi, tôn vinh như thế nào! Lũ “giậu đổ bìm leo”, nhân cơ hội phỉ Tàu (giặc Cờ) quấy nhiễu, xâm chiếm biên giới phía bắc nước ta, chúng nổi lên cướp phá huyện làng, giết chóc nhân dân rất tàn ác như những tên Nhiễm, Đài, Chuyên, và dư đảng “giặc theo đạo Gia-tô” Tạ Văn Phụng… lại được gọi là “khởi nghĩa” [7] (sic!). Thậm chí, Trương Vĩnh Ký, kẻ theo thực dân Pháp suốt đời, trong lúc cả dân tộc đang chống Pháp, lại được đặt tên trường học để giáo dục thế hệ trẻ noi theo “tấm gương tay sai”! Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền vốn là tay sai có vũ trang, là đầu sỏ giặc từng gây họa từ trước, nay lại đòi liên kết với thực dân Anh để chống thực dân Pháp (sic!) (theo cách nói của đình thần thời bấy giờ [8]). Cả hai, nhất là Nguyễn Trường Tộ, lại điều trần “bánh vẽ”, thế mà cũng được đề cao tận trời!
Việc làm sức ép, mua chuộc để đảo ngược sự thật lịch sử đã và đang xảy ra!
May thay là người ta chưa “phục hồi” cái tên Đồng Khánh (5) trên cổng của một ngôi trường lớn nhất nhì ở Huế, hai mươi bảy năm nay được thay bằng hai chữ đầy tự hào cho học sinh thành phố cố đô bên dòng sông Hương: Trưng Trắc!

TRẦN XUÂN AN

1. CHÚ THÍCH bài CÁCH VIẾT SỬ THEO TIÊU CHÍ NGƯỢC Ở ĐẠI NAM THỰC LỤC CHÍNH BIÊN KỈ ĐỆ LỤC VÀ CÁCH VIẾT SỬ XUYÊN TẠC BẰNG SỰ ĐẢO NGƯỢC SỰ THẬT LỊCH SỬ Ở MỘT VÀI TRANG TRONG VIỆT NAM VONG QUỐC SỬ


(1). Thật ra, Phan Bội Châu (và Lương Khải Siêu) chỉ lên án “quyền gian” trong vụ truất phế Dục Đức bằng vài dòng ngắn ngủi khi viết về Phan Đình Phùng (NTPCPBC., Việt Nam vong quốc sử, Nxb. KHXH., 1982, tr. 89). Ai cũng biết: Phan Bội Châu ám chỉ Tôn Thất Thuyết, người trực tiếp ra lệnh trói; và Bộ Hình, bộ đã nghị xử, cách chức Phan Đình Phùng (lúc ấy, Phan Đình Phùng còn chủ hòa). Ngoài ra, Phan Bội Châu không viết một chữ nào về vụ Hiệp Hòa (thân Pháp) và vụ Kiến Phúc (do Hồng Hưu). Lại kì quái thay, Phan Bội Châu (thật ra là Lương Khải Siêu) không một lời lên án bọn cơ hội, cam tâm bán nước cầu vinh như Nguyễn Hữu Độ!

(2). Trương Quang Đản là tổng tài của Quốc sử quán trong giai đoạn tập thể sử quan biên soạn lần cuối cùng đệ tứ kỉ (các tập 27 – 35), và ông cũng là tổng tài từ đầu đến cuối suốt thời gian Quốc sử quán biên soạn đệ ngũ kỉ (tập 36). Trương Quang Đản là người đã cùng Bùi Ân Niên (Bùi Dị) đánh Pháp quyết liệt và có nhiều công lao trong các trận đánh đó. Ông thuộc những người được Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và đình thần đánh giá là “có thể mưu đồ cho đại cục về sau”.
Cao Xuân Dục chỉ làm tổng tài trong quá trình khắc in đệ ngũ kỉ (bản thảo đã hoàn tất từ thời Trương Quang Đản), và trọn vẹn những năm biên soạn đệ lục kỉ (2 tập 37 – 38).
Dẫu sao đi nữa, như đã trình bày: Trước tư liệu gốc (tương tự như bằng chứng có giá trị pháp lí) và nhân chứng lịch sử (nhân chứng đồng thời, đồng sự, đồng triều… , kể cả hoàng tộc ), bất kì ai cũng phải cúi đầu thừa nhận sự thật lịch sử, huống nữa sử quan ý thức họ phải lưu danh lại trên những trang sử cho hậu thế! Và trên tất cả, ấy là tinh thần yêu nước, ý thức sử học bất vị thân của Thành Thái. Chúng tôi muốn khẳng định rõ điều này một lần nữa.

(3). Phương thức biên soạn tập thể đúng nghĩa: Không phải mỗi người trong ban biên soạn phụ trách một phần rồi đem ghép lại thành một bộ sách hoặc một cuốn sách, mà các tư liệu, chi tiết sự kiện, diễn biến lịch sử, hành trạng nhân vật lịch sử, kể cả nhận định, bình giá đều phải được tập thể cân nhắc, lấy ý kiến chung rồi phân công người chấp bút, sau đó tập thể biên tập lại. Hơn nữa, còn phải xuất bản để trưng cầu công luận bằng nhiều hình thức công khai, gồm việc lấy ý kiến nhân chứng còn sống (trong điều kiện bấy giờ)… Tập thể sử quan thường là vài chục người trở lên (xem danh sách ở cuối phần mở đầu mỗi kỉ).

(4). Ngoài ra, Quốc sử quán triều Nguyễn còn ghi tên họ thật, phẩm hàm của các viên thu chưởng, đằng tả, bút thiếp thức, đằng lục… (rất tiếc là còn thiếu quê quán; xem thêm: Quốc triều hương khoa lục).

(5). Trong ngày lễ hội hằng năm của Trường nữ Trung học đệ nhất và đệ nhị cấp Đồng Khánh tại Huế, trước 1975, các giáo sư, nữ sinh chỉ kỉ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng!


2. CƯỚC CHÚ bài CÁCH VIẾT SỬ THEO TIÊU CHÍ NGƯỢC Ở ĐẠI NAM THỰC LỤC CHÍNH BIÊN KỈ ĐỆ LỤC VÀ CÁCH VIẾT SỬ XUYÊN TẠC BẰNG SỰ ĐẢO NGƯỢC SỰ THẬT LỊCH SỬ Ở MỘT VÀI TRANG TRONG VIỆT NAM VONG QUỐC SỬ


[1] Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 15. (Kỉ đệ ngũ: triều đình vẫn còn chủ quyền, độc lập).
[2] ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH., 1977, tr. 15 – 16. (Kỉ đệ lục: bị “bảo hộ”, triều đình hoàn toàn mất chủ quyền).

[3] ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 63 – 64.
Các chữ trong các dấu ngoặc đơn ở đoạn trích trên là đúng như nguyên văn.
[4] Xem tờ tâu của Quốc sử quán, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 37, sđd., tr. 8.
[5] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 5 và tr. 13.
[6] Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, UB. KHXH. Thành ủy TP.HCM., 1990, tr. 12.
[7] Xem: Nhiều tác giả, Đại cương lịch sử Việt Nam (toàn tập), Nxb. Giáo dục, 2001, tr. 506 – 507.
[8] ĐNTL.CB., tập 31, Nxb. KHXH., 1974, tr. 262 – 263.

TXA.



Bài thứ năm

TRÍCH ĐOẠN “ CHỐNG XÂM LĂNG”

(VÀ NHƯ MỘT CÁCH ĐỐI THOẠI
VỚI GS. TRẦN VĂN GIÀU)


I. LỜI THƯA ĐẦU CHUYỆN:

Lời người biên soạn: Chúng tôi không dám vin vào những câu khiêm tốn trong lời nói đầu (viết vào năm 1956) của GS. Trần Văn Giàu ở bộ sách Chống xâm lăng [1] để nghĩ rằng GS. không phải là nhà sử học, mà chỉ là một người học sử để làm công tác tuyên huấn của Đảng, trong hoàn cảnh thực dân Pháp thống trị, người có học lại chỉ học sử Pháp và rất mù mờ về quốc sử. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn mạo muội nhận định: Quan điểm mác-xít – lê-nin-nít, GS. đã vận dụng một cách khá máy móc, không xét đến tính lịch sử – cụ thể. Lẽ ra, phần kiến thức sử học phải tuyệt đối khách quan, còn phần liên hệ (rút ra bài học từ lịch sử cho hiện tại và bản thân) vẫn bảo đảm mục đích yêu cầu tuyên huấn, nếu cần thiết phải tuyên huấn. Phải chân thực về lịch sử, tuyên huấn mới có sức thuyết phục, tức thời trước mắt và bền vững lâu dài! Ngoài việc vẫn bồi dưỡng lòng căm thù giặc ngoại xâm và tay sai, nên khẳng định ý thức không có gì quý hơn độc lập, tự do và nền dân chủ mới (xã hội chủ nghĩa đích thực [2]), hơn là bôi nhọ chế độ phong kiến trong lịch sử, một hình thái chính trị tự bản chất đã quá lỗi thời, một đi không trở lại.
Dẫu sao, chúng tôi thấy cũng cần nói rõ hơn, Đại Nam thực lục, chính biên, các kỉ IV, V, VI (1847 – 1883; 1883 – 1885; 1885 – 1888) [3], Quốc sử quán triều Nguyễn phải biên soạn trong điều kiện nước mất, Thành Thái, Duy Tân luôn bị đe dọa phải lưu đày, rồi cuối cùng cả hai vị đều bị lưu đày. Do đó, phần sử về ba kỉ trên (1847 – 1888) đã bất lợi (không dám ghi nhận rõ tính chiến đấu, tinh thần chống Pháp…) cho Tự Đức, Nguyễn Tri Phương, nhất là quá bất lợi đối với Nguyễn Văn Tường (1824 –1886) và các thành viên khác của nhóm chủ chiến Triều đình Huế, kể cả phong trào Cần vương (khởi động từ 1883, bùng nổ sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ, 05.7.1885). Nguyễn Tri Phương vì tử tiết từ 1873, không “phạm” vào “tội” chống các tên vua thân Pháp, đầu hàng Pháp, và đã được triều đình khẳng định từ 12 năm trước khi cả triều đình lẫn toàn bộ đất nước rơi hẳn vào tay giặc Pháp, nên khó bề loại ông ra khỏi Đại Nam liệt truyện [4], mặc dù tinh thần chống Pháp của ông cũng chỉ được viết một cách quá rụt rè. Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Đính… lại không hề có được một trang tiểu truyện riêng trong bộ Liệt truyện ấy!
Đã thế, lẽ nào chúng ta lại càng hạ thấp, bóp méo, thêm bớt không đúng sự thật về họ, chỉ vì họ là những người yêu nước, chống Pháp nhưng lập trường lại thuộc về hệ ý thức phong kiến và là quan lại triều Nguyễn? Nhận thức thiếu sót nên đánh giá sai? Hoặc chỉ đề cao Tôn Thất Thuyết và phong trào Cần vương, bởi nhận thức không đúng về Nguyễn Văn Tường, ngỡ rằng ông đã thực sự đầu hàng? Chẳng lẽ sử học có quyền nhận thức sai, sử học không có công lí và công bằng?
Tuy thế, dẫu sao, qua “Chống xâm lăng”, GS. cũng đã gián tiếp phủ định, đả phá các dòng chữ trong vỏn vẹn chỉ hơn một trang sách và trong một đoạn khác, vốn viết sai lầm, xuyên tạc về Nguyễn Văn Tường (và Tôn Thất Thuyết trong việc phế lập), ở Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu, (thực ra là Lương Khải Siêu, một người nặng tư tưởng bảo hoàng, Đại Hán chủ nghĩa [5]).
Về tư liệu, dẫu khó khăn và thiếu thốn, bị Pháp và Diệm cướp đem vào Sài Gòn hồi 1954, GS. cũng đã tiếp cận được nhiều nguồn như GS. đã kể rõ: tư liệu của Pháp, tư liệu triều Nguyễn, các nhà ái quốc Văn thân, tư liệu Trung Quốc, Liên Xô, tư liệu của các trí thức mác-xít, tiến bộ như Trần Huy Liệu, Chu Thiên Hoàng Minh Giám, Đào Duy Anh, và cả tư liệu của Trần Trọng Kim, Phan Trần Chúc…
GS. Trần Văn Giàu viết về tư liệu của đế quốc Pháp: “Lắm khi không tìm ra cái nguồn đầu tiên [tư liệu gốc – TXA. ct.] mà bị bắt buộc phải dùng sách nghiên cứu của bọn thực dân luôn luôn xuyên tạc sự thật”; về tư liệu triều đình Huế: “biên soạn theo quan điểm và quyền lợi phong kiến suy tàn”; tư liệu do các nhà Văn thân ái quốc ngoài Bắc, “trong phong trào cách mạng và kháng chiến nhiều gia đình bị địch đốt phá nhà cửa, mất mát giấy tờ quý báu”; và tư liệu Trung Quốc bấy giờ đang được sưu tầm… Trong số tư liệu vẫn còn ở các thư viện Hà Nội đó, dĩ nhiên có cả Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu (và của Lương Khải Siêu, một người bảo hoàng, Đại Hán chủ nghĩa hạng nặng!). “Lẽ tất nhiên là tất cả các loại tài liệu trên đều phải được đọc và xét với một ý thức phê bình cao, một quan điểm Mác – Lê vững thì mới có thể tiếp cận với sự thực khách quan của lịch sử”; “Trần Trọng Kim, Phan Trần Chúc, Văn Hà v.v… cũng đã gom góp được một phần tài liệu chính xác, song, tất nhiên là quan điểm của những tác giả này khác xa với quan điểm của chúng ta; cho nên ở nhiều nơi tôi có trực tiếp hay gián tiếp tranh cãi những quan điểm của các nhà sử tư sản, cũng như ở nhiều nơi tôi cố đả phá quan điểm của sử gia thực dân” [6].
Vấn đề còn lại là: tư liệu gốc của phía thực dân Pháp. Theo GS. Trần Văn Giàu, Pháp bảo 100 năm sau khi việc xảy ra mới công bố! Hạn giải mật lâu đến thế sao? Hay chờ nhân chứng chết hết mới công bố tư liệu gốc? Hay còn âm mưu gì khác?
Tư liệu gốc của phía triều đình Huế với những quốc thư, dụ, chiếu, tấu, sớ, cáo thị, bản án… có châu phê, thường được gọi là châu bản, và còn có cả bản án cáo thị của De Courcy, De Champeaux về Nguyễn Văn Tường, các văn bản khác của Pháp gửi triều đình Huế, được trích dẫn trong ĐNTL.CB. IV, V, VI (1847 – 1888), không phải là tư liệu gốc sao?
Xin được nhắc lại điều này: Thành Thái vẫn giữ vững tinh thần Lê Thánh Tôn (trong việc minh oan cho Nguyễn Trãi) và kiên định ý thức sử học bất vị thân trước sự đe dọa của thực dân Pháp. Vị vua yêu nước này không chịu ban dụ khắc in kỉ đệ lục (1885 –1888), vì kỉ đệ lục này vốn rất nhục nhã đối với vương triều Nguyễn. Nhưng tai hại thay, kỉ đệ lục lại được khắc in vào năm Duy Tân thứ ba (1909), lúc Duy Tân còn quá bé, và sau đó lại bị truyền bá khắp cả nước, dùng để giảng dạy trong nhà trường thực dân nửa phong kiến [7]; trong khi đó, kỉ đệ tứ (1847 – 1883), kỉ đệ ngũ (1883 – 1885), đã được khắc in từ 1894 đến 1902, lại bị cất vào kho sử (và phát hành rất hạn chế!) [8]. Một nguyên nhân quan trọng của vấn đề là ở đó!
Tuy vậy, vào năm 1916, trên Bulletin des amis du vieux Huế (BAVH.) [9], Aldophe Delvaux, trong bài viết, đã xác định ông ta là người đã sử dụng đầu tiên và là người duy nhất được sử dụng vào thời điểm đó tư liệu chính thức của Nhà nước Pháp (gồm chính quyền “bảo hộ”). Đến năm 1921, Trần Trọng Kim xuất bản Việt Nam sử lược, được viết bằng quốc ngữ. Năm 1969, Cao Huy Thuần được tiếp cận tư liệu trước đó chưa công bố của Pháp [10]. Vào năm 1982, Yoshiharu Tsuboi, giáo sư Nhật Bản, được sự tài trợ của Chính phủ Pháp, được sự hướng dẫn của GS. Georges Condominas, sự giúp đỡ của một số nhà sử học Pháp, đã công bố thêm những tư liệu chưa công bố trước thời điểm 1982; Thành ủy TP.HCM. đã xuất bản bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Đình Đầu và nhiều dịch giả khác, vào năm 1990, với các lời giới thiệu của Ban KHXH. Thành ủy TP.HCM., và của chính GS. Trần Văn Giàu. GSTS. Yoshiharu Tsuboi thể hiện trong tác phẩm tiêu chí nhận định là độc lập dân tộc, chứ không phải là thứ tiêu chí của bọn xâm lược như trong BAVH.. Nói cụ thể hơn, khác với quan điểm thực dân trong BAVH., Tsuboi xác định rõ Trần Tiễn Thành, Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình là tay sai của thực dân Pháp, và những người yêu nước, chống Pháp chính là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Hoàng Tá Viêm… Tiêu chí độc lập dân tộc ấy, đúng với đạo lí và công lí của bất kì đất nước nào trên thế giới. Nhưng Trần Trọng Kim, Cao Huy Thuần đều có sai lệch, hạn chế, GSTS. Nhật Bản Yoshiharu Tsuboi vẫn còn thể hiện trong cuốn sách sự nhận thức và sử dụng tư liệu theo quan điểm bảo hoàng, tư sản của chính Y. Tsuboi…
Rất tiếc, cho đến nay, năm 2002, Pháp, Vatican vẫn chưa công bố trọn vẹn tư liệu gốc của phía họ; châu bản triều Nguyễn, kho lưu trữ được đặt ở TP. HCM., cũng đang trong tình trạng chưa công bố!
Như vậy, rõ là tư liệu đã tương đối đầy đủ các nguồn, nhưng chưa tuyệt đối trọn vẹn. Vì thế, việc công bố trọn vẹn toàn bộ tư liệu gốc của Pháp và của triều Nguyễn, không để sót một mẩu nào, vẫn là yêu cầu bức thiết và chính đáng của việc nghiên cứu khoa học lịch sử giai đoạn này.
GS. Trần Văn Giàu trong lời giới thiệu cho cuốn sách của Y. Tsuboi còn cho rằng, kho châu bản triều Nguyễn thực ra còn quan trọng hơn cả hồ sơ tư liệu thuộc Bộ Hải ngoại và Bộ Thuộc địa Pháp, thời thực dân Pháp xâm lược nước ta. GS. đã xác định rất chí lí cái chủ yếu và cái thứ yếu, cho dù cái thứ yếu ấy không nên thiếu sót. Cái chủ yếu là điều kiện cần (ắt có, phải có), cái thứ yếu là điều kiện đủ. Có đầy đủ tư liệu gốc của phía Pháp để tham khảo, đối chiếu vẫn rất cần thiết, quá cần thiết, và vẫn tốt hơn cho việc nhận định sự kiện, nhân vật, tuy đó không phải là cái quyết định. Nói rằng tư liệu gốc của phía Pháp không phải là cái quyết định, bởi cái nhìn thực dân, ai cũng biết như thế nào rồi (thù hận, méo mó, xấc láo, đầy ác tâm…). Cũng như vậy, nhưng cũng cần tham khảo đầy đủ tư liệu của Tây Ban Nha, của Vatican (Rome), Hội Truyền giáo Paris tại hải ngoại.
Vâng, châu bản là cái chủ yếu và quyết định. ĐNTL.CB. IV, V, VI dẫu sao cũng không thể mâu thuẫn với toàn bộ châu bản từ 1847 đến 1888 còn lưu trữ trong kho.
Mặc dù thế, chúng tôi nghĩ, trong tinh thần dân chủ xã hội chủ nghĩa đích thực, phải “dân chủ vạn lần hơn dân chủ tư sản”, trên lĩnh vực học thuật, cần phải nêu vấn đề để không còn tình trạng cố tình, cố ý, chủ tâm hoặc vì lí do bên ngoài sử học nào đó mà quên đi những tư liệu gốc hết sức quan trọng về Nguyễn Văn Tường, ngay trong Đại Nam thực lục chính biên IV, V, VI (1847 – 1883; 1883 – 1885; 1885 – 1888), để đánh giá về ông một cách hết sức bất công; hoặc tái bản một bộ sách được viết từ 45 năm trước, ấy là năm 1956, mà không được tác giả bổ sung, sửa chữa lại! TXA.


II. TRÍCH ĐOẠN VÀ ĐỐI THOẠI:

Lời người biên soạn: Trên cơ sở lấy ĐNTL.CB., chủ yếu 2 kỉ đệ tứ và đệ ngũ [11], làm chuẩn cứ, xin trích dẫn từ bộ sách Chống xâm lăng của GS. Trần Văn Giàu một số đoạn khá chính xác ở dưới đây. Những câu chữ xem ra không cần thiết, hoặc xét thấy sai lệch (diễn dịch gần như xuyên tạc, sợ rằng khiến người đọc ngỡ GS. có ác ý), hoặc nhận rõ là tuyên huấn khiên cưỡng, quá đáng và không sát hợp, xin mạn phép lược bỏ, thay bằng kí hiệu: […], [&?!?]. Ngoài ra, có chỗ chúng tôi không lược bỏ nhưng đành phải bày tỏ ý kiến riêng bằng bị chú hoặc cũng bằng các dấu biểu cảm như: [?!?] [12]… Chúng tôi hi vọng có lúc GS. sẽ xem xét lại, trên cơ sở nghiên cứu lại một cách nghiêm túc, các trang GS. đã viết về nhân vật Nguyễn Văn Tường (1824 – 1996) trong bộ sách Chống xâm lăng của mình, để đừng rơi vào trường hợp của Phan Bội Châu, bị sứt mẻ thanh danh, lại gây khó khăn cho hậu thế.
TXA.


[…]
Ngày 26, Phi-lát [Philastre – TXA. ct.] cùng Nguyễn-văn-Tường lên đến Hải-dương. Tường lại phi tư cho Bắc-ninh, Hưng-yên trích ra 1.000 quân để chuẩn bị tiếp thu thành Hải-dương (2-1-74). Ở đây mặc dù tên võ quan Pháp là Trăng-ti-nhăn [Trentinian – ct.] cứng đầu muốn chiếm giữ mãi, mặc dầu tên ngụy tổng đốc Trương (Gác-nhê [Garnier – ct.] mới đặt lên, vốn là người thợ rèn theo công giáo) muốn mưu bắt Nguyễn-văn-Tường để phá hoại sự nghị hoà (Tường biết mưu gian đó, bàn với Phi-lát bắt Trương đem giữ ở dưới thuyền máy), Phi-lát hạ lệnh trao trả thành luỹ cho quan Nam triều và ra lệnh chuẩn bị trao trả Nam-định, Ninh-bình. Hác-măng [Harmann – ct.] và Hốt-tơ-phơi [Hautefeuille – ct.] tuy phản đối mà cũng thấy rằng như thế là chóng được thoát khỏi nguy cơ bị tiêu diệt nên chúng rút lui không mấy phàn nàn.
[…]
(sđd., tr. 317).
[…].
Chỉ cần kể lại một buổi nói chuyện giữa Phi-lát và Đuy-puy [Jean Dupuis – ct.], thì đủ trông thấy không khí xung đột trong đám thực dân lúc bấy giờ ở Hà-nội. (Nên chú ý rằng trong vụ xâm lược này, các cha cố I-pha-nho [Espagnol, Tây Ban Nha – ct.] không chịu ủng hộ bọn Gác-nhê và Puy-gi-nhê [Puginier – ct.]).
Từ mấy hôm rày, Đuy-puy tới lui tìm gặp Phi-lát một là để hỏi tại sao tàu chiến của Pháp đốt phá 28 thuyền chở gạo Bắc-kỳ sang Hương-cảng ở ngoài cửa Cấm, trong số gạo này, có vốn của Đuy-puy hùn với các nhà tư sản Hoa-kiều, hai là để kêu xin đừng trả lại thành Hà-nội cho triều đình Huế; Phi-lát không cho gặp.
Mấy hôm sau, khi gặp được Phi-lát, Đuy-puy xin đừng trả thành, xin bồi thường thiệt hại cho hắn (1 triệu quan), xin được bảo vệ cho thuyền hắn đi Vân-nam, thì Phi-lát không nhận lời nào. Đuy-puy kêu nài có vẻ hung tợn thì Phi-lát nói:
“Người bán than làm chủ cái tiệm than của mình; các quan An-nam là chủ trong nhà của họ; họ không muốn anh đến ở nhà họ thì anh lấy quyền gì mà anh cứ đến, cứ ở?”.
Đuy-puy nóng tiết lên, hỏi lại:
“Nếu tôi đến ở Bắc-kỳ trái với nguyện vọng của người An-nam thì thử hỏi người Pháp tới ở Nam-kỳ có đúng với nguyện vọng của người An-nam không?”.
Lẽ tất nhiên Phi-lát cứng họng, liền đáp:
“Chúng ta đến Nam-kỳ với tư cách của kẻ cướp, kẻ trộm. Anh và Gác-nhê cũng là kẻ cướp, kẻ trộm thôi.
Nếu Gác-nhê không chết thì hắn sẽ bị truy tố ở toà án quân sự”.
Đuy-puy đòi lấy của triều đình trong các thành để bồi thường cho hắn, thì Phi-lát trả lời rằng, đô đốc Đuy-pơ-rê [Dupré – ct.] không có dặn gì về khoản này cả; Đuy-pơ-rê lại bảo cho Đuy-puy xa lánh Bắc-kỳ đi, đi lên Vân-nam đi, đi mà không được đem theo pháo thuyền quân đội như dạo trước.
Còn giám mục Puy-gi-nhê, từ khi Phi-lát đến với Nguyễn-văn-Tường thì xuống nước hẳn đi, khóc lóc. Ông [(?!?) – iđ. & ing.] thổi phồng thêm những chuyện có thật, là các quan và các nhà nho bắt giết người công giáo đã theo Pháp đánh lại đất nước Nam; ông [(?!?) – iđ. & ing.] kể lể cho Ba-lê-zô [Balézeaux – ct.] rằng nhiều làng công giáo đã theo Pháp nay bị đốt; thì Ba-lê-zô đáp:
“Các quan An-nam cố sức ngăn cản sự trả thù được chừng nào hay chừng ấy, việc xảy ra nào phải lỗi tự họ đâu; người công giáo phải trả cái gì họ đã vay trong lúc Pháp chiếm đóng, đó là lẽ tự nhiên”.
Puy-gi-nhê than:
“Bây giờ các ông lại đổ lỗi cho chúng tôi”.
“Tôi đã mất hết uy tín đối với tín đồ công giáo rồi”.
(Evènements du Tonkin, trang 250).
Không phải Phi-lát và Ba-lê-zô cầm cân công lý đâu. Chúng vẫn là cánh thực dân cả. Song thực dân Pháp đang ở trong cái thế không thể không hòa được, vì thế mà chúng phải bóp bụng chịu vậy, chúng sáng suốt hơn là bọn Đuy-puy, Gác-nhê, chúng sợ rằng nếu đánh lúc ấy thì đã chẳng lấy được Bắc-kỳ lại còn sợ mất cả Nam-kỳ nữa.
Trong và sau khi thương nghị trả thành, ở Ninh-bình, Nam-định, Hải-dương và Hà-nội, nhất là 10 ngày theo sau các cuộc trả thành, có nhiều vụ trả thù, nhiều vụ bắt bớ, giết chóc và trục xuất cảnh ngoại. Triều đình phần thì sợ Pháp can thiệp nữa, phần thì bất lực, nên chỉ ngồi ngơ không có chính sách khoan hồng, cũng không có chính sách đoàn kết lương giáo; nhưng ta hãy ghi rằng tất cả các cha cố đã tận lực mộ nguỵ binh cho Pháp, kéo quân đi đánh phá nơi này nơi nọ, chỉ điểm cho giặc, làm thông ngôn cho giặc, đều được yên toàn cho đến khi 10 năm sau, lúc Hăn-ri Ri-vi-e [Henry Rivière – ct.] đến thì họ lại trở lại làm cái việc mà họ đã làm trong cuối 1873 và đầu 1874. Lại có một điều rất đáng được chú ý và đề cao là phe kháng chiến lúc này đã biết truyền hịch cho đồng bào công giáo, cho mã tà công giáo chớ nên nghe lời địch cầm vũ trang chống lại nước nhà, mà hãy trở lại với dân với nước, quay súng đánh Tây (Evènements du Tonkin, trang 275); lời kêu gọi đó cũng có kết quả: tin đồn quân triều đình ra gần tới Tam-điệp thì nhiều mã tà ở Ninh-bình, Nam-định bỏ hàng ngũ địch. Ngay trong số cha cố, há không có người ái quốc? Đuy-puy đã chẳng gọi cha Huân (liên lạc và thông ngôn của quan Nam triều) là mật thám của triều đình hay sao?
Lại đặc biệt chú ý đến điều này là các làng công giáo nào mà không có tham gia giúp Pháp chiếm lấy Bắc-kỳ thì không có ai đụng chạm đến, đó là trường hợp của tất cả các xứ đạo do cha cố I-pha-nho cầm đầu. Các xứ đạo này có số tín đồ trên 10 vạn, gần bằng một phần nửa số tín đồ do cha cố Pháp cầm đầu. Ngay trong các xóm công giáo có người theo Tây thì nói chung, chỉ có những kẻ tàn ác và kẻ làm lò rèn rèn vũ khí cho ngụy binh mới bị trừng trị (Lemire, L’Indochine, trang 301).
Bên phía Phi-lát thì yêu cầu làm đính ước mới trong khi trao trả thành; nhưng lúc bấy giờ thì Tường thương thuyết trên cái thế tương đối mạnh. Bên triều đình đòi lập lại tình thế trước khi xung đột rồi sẽ đính ước mới. Nhờ có thắng trận Cầu-giấy! Còn Pháp thì bối rối do dự, nên Phi-lát được toàn quyền uỷ nhiệm của Đuy-pơ-rê để giao thành trước rồi mới đính ước sau. Ninh-bình được giao trả ngày 6.1.74, Nam-định ngày 10.1. Quân viễn chinh cũng rút khỏi Hà-nội, trừ một trung đội ở lại làm hộ vệ cho viên lãnh sự Ray-na [Rheinart – ct.]. Tên con buôn côn đồ Giăng Đuy-puy bị trục xuất, tất cả tài sản của hắn bị niêm phong ở Hải-phòng. Ngày 16.2, thành Hà-nội được giao trả. Ngày 4.3, Phi-lát về Sài-gòn để chuẩn bị hoà ước.
Trải qua một trận phong ba, ai ai đều trông thấy càng rõ sự mục nát của bộ máy phong kiến, càng trông thấy rõ lòng ái quốc của nhân dân.
[…]
(sđd., tr. 317 – 320).
[…]
Dù sao đi nữa, trong triều đình Huế, Thuyết là lãnh tụ cang cường nhất lúc ấy, tiêu biểu nhất cho ý chí đề kháng; chỉ có những người hoặc là tôi đòi của thực dân, hoặc thiếu suy nghĩ kỹ, mới không chịu thấy rằng mặt tốt của Thuyết là căn bản; chỉ có những ai bị sử thực dân mê hoặc quá mới xem đạo quân Phấn-nghĩa của Thuyết tổ chức lựa lọc là để cướp phá, giết chóc, là để cho Thuyết chuyên quyền cá nhân. Thuyết là một nhà ái quốc. Từ những vụ phế vua đến ám sát Trần-tiến-Thành, các hành động đó, căn bản đều có mục đích cứu nước chống Pháp cả; tiêu diệt những phần tử thân Pháp, đầu hàng, là điều phải làm, làm khôn khéo chăng, đúng mực chăng, ấy là việc khác. Thuyết nắm binh quyền tức là thực quyền [vũ trang – TXA. ct.], cho nên không phải tên khâm sứ Pháp ở Huế muốn gì cũng được; mặc dù rằng tên Lơ-me-rơ [Lemaire – ct.] có quân đóng ngay ở Huế, bên kia sông và ngay ở Mang-cá, Lơ-me-rơ vẫn phải kiêng nể Thuyết, chưa dám bức bách triều đình một cách quá chừng mực.
[…]
(sđd., tr. 547).
[…]
Trong lúc nhân dân tự động kháng chiến thì quân đội chính quy của triều đình ở Bắc-kỳ không đánh nữa, chỉ trông chừng, chờ đợi; nhiều người ái quốc mộ binh kháng chiến mà lấy danh nghĩa nhà Thanh nên không mấy được nhân dân hết lòng ủng hộ. Còn ở triều đình thì việc phế lập biểu hiện mâu thuẫn ở hai phe chủ hoà và chủ chiến [&?!?].
[…]
(sđd., tr. 449).
[…]
Nhắc lại Tự-Đức chết ngày 19-7-1883. Tự-Đức không con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi, con nuôi trưởng là Thụy quốc công Dục-Đức; thứ hai là Kiến-Giang quận công Chánh-Mông; con thứ ba là Dưỡng-Thiện. Di chiếu của Tự-Đức nói rằng Dục-Đức không đáng làm vua; Dưỡng-Thiện đáng hơn, nhưng Dưỡng-Thiện còn quá nhỏ; thế nước đương nguy, cần có vua lớn tuổi, nên đành lập Dục-Đức làm vua, nhưng bên cạnh phải có một hội đồng phụ chánh gồm Trần-tiến-Thành, Nguyễn-văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết.
Nguyễn-văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết không chịu lập Dục-Đức là người mà họ thấy rằng không có chí cả, không mưu việc lớn được, nên bỏ di chiếu của Tự-Đức mà lập em ruột của Tự-Đức là Lãng quốc công Hồng-Dật lên làm vua, lấy niên hiệu là Hiệp-Hoà, còn Dục-Đức thì [bị chỉ định nơi ở là Giảng đường Viện Thái y; một năm ba tháng sau – TXA. ct.] bị giam, bị bỏ đói đến chết. Phan-đình-Phùng can ngăn không được việc phế lập, bị trói giam ở nhà giam Cẩm-y rồi bị cách chức đuổi về tỉnh nhà.
Sau hoà ước 1883, triều đình Huế vẫn còn chia làm hai phái, đầu hàng và kháng chiến; phái đầu hàng là đa số; phái kháng chiến là thiểu số ở triều đình; nhưng Thuyết nắm binh quyền, làm binh bộ thượng thơ, lại có một số khá đông quan quân ngoài Bắc lục đục kéo về theo lệnh triệt binh của triều đình, nên phần lớn triều đình phải nghe theo Tôn-thất-Thuyết [&?!?].
[…]

Lời người biên soạn: Một lần nữa, xin khẳng định rõ, chúng tôi đã gián tiếp tranh luận với GS. bằng bài viết phân tích hai câu bổ sung của bài thơ “Giải triều…”: Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885. Ở đây, xin nói thêm: Từ lúc còn làm tri huyện Cam Lộ, phủ doãn Thừa Thiên, tham tán, tán lí tiễu phỉ ở biên giới phía Bắc đến lúc đảm nhiệm chức vụ thượng thư Bộ Hộ, quản lí Thương bạc đại thần, phụ chính đại thần, Nguyễn Văn Tường vẫn chủ trương “chiến đã mới có thể hòa, hòa để thủ, thủ để mưu chiến” [13] – chiến là phương thức cơ bản, quyết định (tiên quyếât và hậu quyết). Thời điểm 1883 – 1885 và hai tháng sau ngày 5.7.1885, không thể không chiến được. Đó là lúc Tự Đức cũng cho rằng “ta không tính chúng, chúng cũng tính ta; tính trước thì thắng”, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đều xác định “thế đã thành cưỡi hổ, tên đã ở trên cung” [14].
Đọc kĩ các tư liệu gốc, chúng ta thấy rõ: Nguyễn Văn Tường bước lên thế cưỡi hổ, trước mũi tên trên cung, không phải từ 1883, mà từ hơn mười lăm năm trước đó, 1868 [15], đặc biệt từ 1873. Và Nguyễn Văn Tường luôn luôn ở trong thế cưỡi trên lưng con-cọp-kẻ-thù là giặc Pháp, trước mũi tên đã ở trên cung cũng của kẻ thù là giặc Pháp, cho đến khi bị lưu đày đến tít tận Tahiti *.
Nguyễn Văn Tường không phải là một người ngây thơ, mà là một nhà chính trị sâu sắc; ông kiên quyết, bền bỉ chống Pháp, và tất nhiên, ông hiểu rất rõ lòng căm thù sâu sắc, dai dẳng của Pháp đối với ông, chúng luôn luôn quyết đập tan tành uy thế của ông, nên ông nhận thức cũng như thực dân Pháp nhận thức, là không thể đội trời chung, cho dù trước hay sau ngày Tự Đức mất (19.7.1883), cho dù trước hay sau ngày Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885).
TXA.


[…]
Hiệp-Hòa thấy Tôn-thất-Thuyết và Nguyễn-văn-Tường không chịu thi hành tân ước bảo hộ, mà cứ chủ trương kháng chiến thì sợ cho địa vị làm vua của mình, và biết chỗ khác nhau giữa Thuyết và Tường, nên vua Hiệp-Hòa tư thông với khâm sứ Pháp và mưu đổi Thuyết sang bộ lại, Tường sang bộ binh. Biết mưu gian ấy, Thuyết và Tường xin với Từ-Dũ thái hậu bỏ Hiệp-Hòa, mà lập hoàng tử Dưỡng-Thiện 15 tuổi, con nuôi thứ ba của Tự-Đức, lên ngôi vua, niên hiệu là Kiến-Phúc. Đó là cuối năm 1883. Hiệp-Hòa bị phế, việc ấy cũng đúng thôi, làm vua lại tư thông với giặc thì chỉ là giặc, bị phế rồi thì tất nhiên trong tình trạng xã hội và triều đình lúc bấy giờ không thể nào không bị ám hại được.
[…]
Đa số đình thần và cả vua Kiến-Phúc với hoàng gia lại thường tư thông với khâm sứ Pháp ở Huế, làm trở ngại công việc của Tôn-thất-Thuyết, cho nên đến tháng 7 năm 1884 chúng ta sẽ thấy Kiến-Phúc chết bất ngờ, mờ ám, Tôn-thất-Thuyết và Nguyễn-văn-Tường sẽ chọn Ưng-Lịch, tôn lên ngôi là vua Hàm-Nghi mới 12 tuổi.
[…]
(sđd., tr. 549 – 511).

Lời người biên soạn: Thủ phạm, theo chúng tôi, đó là Hồng Hưu (?) [16]. TXA.

[…]
Ngày 27 tháng 6, tên tướng Đờ Cuốc-xy cùng với quan năm Cơ-rê-tanh [Crétin (?) – ct.] cầm đầu 4 đại đội bộ binh, đáp hai tàu chiến từ Hải-phòng vào Huế.
Khi Đờ Cuốc-xy đi vào Huế với quân đội của hắn thì tên tướng Bri-e đờ Lin-xơ [Brière de L’Ilse (L’Isle) – ct.] ở Hà-nội tuyên bố rằng:
“Tôi luôn luôn nghĩ rằng cái cách duy nhất để giải quyết hiện tình là phải bắt cóc hai người quan phụ chính”.
Hai người quan phụ chính đó là Tôn-thất-Thuyết và Nguyễn-Văn-Tường. Bản thân Đờ Cuốc-xy đã nửa úp nửa mở:
“Phải giải quyết cả vấn đề này tại Huế”.
Ch. Gốt-sơ-lanh [Charles Gosselin – ct.] có chép lại một đoạn trong bức thư của một tên thực dân viết vào ngày 1-7-1885:
“Trễ còn hơn không. Ta sẽ bắt Tường và Thuyết chăng, hay ta sẽ làm sao cho họ không còn có cách gì phá hoại ta nữa”.
(Gosselin, L’Empire d’Annam, tr. 197).
Cái điều làm cho bọn thực dân hậm hực nhất là Tôn-thất-Thuyết, Nguyễn-văn-Tường nắm cả bộ binh và bộ lại, nghĩa là thực quyền còn lại trong tay của triều đình Huế. Thuyết và Tường hành động không phải hỏi ý kiến của khâm sứ thực dân. Pháp hậm hực hơn nữa là vì Thuyết và Tường một mặt tập trung nhiều quân về Huế, đồng thời đem nhiều của cải vàng bạc, lương thực ngày càng nhiều lên các sơn phòng. Địch dự đoán rất đúng rằng “nếu một hôm nào đó, triều đình sẽ đi theo số của cải ấy, thì không có gì là lạ cả”.
Pháp nhất quyết lần này phải nắm hẳn toàn bộ hội đồng phụ chính, tẩy trừ Thuyết, Tường ra khỏi hội đồng này, và nhất là giải tán quân đội của Tôn-thất-Thuyết, tức là siết chặt nền đô hộ, làm cho triều đình hoàn toàn phụ thuộc vào thực dân Pháp.
Tường là một quan văn, trước là tri huyện Quỳnh-lôi [thực ra là Cam Lộ, nơi ông đã xây dựng thành lũy Tân Sở, thuộc tỉnh Quảng Trị – TXA. ct.], sau làm phủ doãn Thừa-thiên, từ năm 1875 vào viện Cơ Mật; ông là một nhà ngoại giao khéo léo, mềm mỏng, ngọt dịu, thường thấu tâm trạng của chính khách [&?!?]. Tường làm phụ chính thứ nhất, trước Thuyết. Vấn đề mâu thuẫn giữa Tường và Thuyết không phải là vấn đề địa vị nhất nhì như các nhà sử thực dân thường nói, mà căn bản là hai màu, hai độ khác nhau của một cánh đề kháng trong triều đình. Tường chú trọng về thương thuyết, nhờ sức mạnh của bộ đội để mà nói chuyện với Pháp, còn Thuyết thì tư tưởng đề kháng mạnh hơn, có thể đi đến võ trang tranh đấu nếu Pháp lấn lướt quá.
[…]
(sđd., tr. 549 – 550).
[…]
Thực ra không phải đợi đến khi Đờ Cuốc-xy sang thì mới có bọn thực dân muốn giải quyết mau, ăn mau, ăn trọn bằng cách bắt Thuyết và Tường, giải tán quân đội Việt-nam. Ngày 6 tháng 8 năm 1884, nghĩa là vừa hai tháng sau hòa ước 6-6-1884, tên đại tá Ghe-ri-ê [Guerrier – ct.] đã mang 600 quân, 2 đội pháo binh và chiến thuyền vào Huế với nhiệm vụ là chiếm lấy hoàng thành nếu viện Cơ mật không tuân theo tối hậu thơ của hắn; nhưng tối hậu thơ đưa đến, Thuyết không nghe; Ghe-ri-e không dám làm gì; địch xoay sang cách khác; ngày 17-6-1884 ấy, tên khâm sứ Pháp và các tên võ quan thực dân vào triều đình yết kiến nhà vua, thì Thuyết giàn giá quân lính và văn võ bá quan rất chỉnh tề; vua Hàm-Nghi chỉ ngồi trên ngai mà tiếp khâm sứ Pháp, không đi xuống đón, cũng không đứng dậy tiếp; sau lễ yết kiến, Thuyết cho quan hầu dắt cả đoàn Pháp đi ra bằng cửa hông, không cho ra cửa chính; bọn thực dân rất tức tối; song cả nước Việt-nam lúc bấy giờ phấn khởi, hoan nghênh thái độ cử chỉ của Tôn-thất-Thuyết, nhất là của vua Hàm-Nghi. Trong quyển “Le Roi Proscrit”, tác giả Mác-xen Gô-chê [Marcel Gauthier – ct.] viết:
“Như thế, vua Hàm-Nghi giữ được tính chất thiêng liêng đối với thần dân mình. Vô tình vị vua trẻ tuổi mới làm một việc mà ảnh hưởng lan dội lớn lao trong cả nước: khẳng định cái ý chí muốn giữ độc lập và dù Pháp có đóng quân ở Huế thì triều đình vẫn không qụy lụy trước họ. Cái thái độ tiêu biểu của vị vua trẻ tuổi ấy là do hội đồng phụ chính bày vẽ thôi, hội đồng phụ chính rất có lý mà tin chắc rằng quần chúng nhân dân trông vào thái độ của vua để mà noi theo, xem thái độ ấy như là một mệnh lệnh không nói ra bằng lời, để cho nhân dân kháng cự với kẻ mới đến”.
(Marcel Gauthier, Le Roi Proscrit, trang 40 – 41).
Đó là năm ngoái. Pháp ấm ức nhưng giả như không biết bởi vì chiến tranh Trung – Pháp lúc ấy hãy còn đang cháy. Năm nay, chiến tranh Trung – Pháp dứt rồi, Pháp muốn có ở Huế một ông vua ngoan ngoãn, hay nghe, dễ bảo, muốn có một viện Cơ mật và một hội đồng phụ chính gồm toàn người thân Pháp; muốn được như vậy thì theo kế hoạch của Đờ Cuốc-xy phải bắt cóc Thuyết và Tường, giải tán quân đội Huế; Thuyết bị bắt thì, theo Đờ Cuốc-xy, cánh đề kháng sẽ tự nhiên tan rã.
[…]
(sđd., tr. 550 – 551).
[…]
Ngày 3-7, Đờ Cuốc-xy mời Tường và Thuyết qua bên kia sông để “thương nghị” tại dinh của hắn. Lẽ cố nhiên là hễ hai vị lãnh tụ của cánh đề kháng mà qua sông thì sẽ không trở lại nữa, hoặc nếu có trở lại thì đó là sau khi quân đội đã bị giải tán rồi, sau khi một hội đồng phụ chính khác đã thành lập rồi. Cuốc-xy tưởng là mưu cao, hoá ra cái âm mưu loại Hồng môn hộ yến này, ở Viễn-đông trẻ con nào lại không biết? Thuyết cáo bệnh không đi. Chỉ có Tường và Phạm Thận Duật qua sông. Bắt Tường và Duật thì không có lợi gì cả, vì binh quyền nghĩa là thực quyền [vũ trang – TXA. ct.] là ở trong tay Thuyết. Cuốc-xy nài bảo Thuyết phải đến. Thuyết càng thấy rõ âm mưu lộ liễu của giặc Pháp nên đề phòng thêm cẩn mật.
[…]
(sđd., tr. 552).
[…]
Thấy tình hình căng thẳng, Thuyết gấp rút chuẩn bị đối phó; một mặt, gởi gấp ra Quảng-trị nhiều tài sản quý báu của triều đình, cả súng đạn; một mặt khác thì làm chiến luỹ trong thành, tập trung thêm quân vào trong nội. Hoàng thành xây từ 1805 đến 1820 là một cái thành vuông, mỗi bề 2 kilômét rưỡi, một mặt giáp sông Hương, ba mặt có hào sâu; tường thành làm bằng mặt đá [gạch – ct.] cao 10 mét; trên mặt tường có dư trăm đại bác. Trong thành có dư vạn binh lính. Các cuộc phòng ngự và hoạt động này, giám mục Cát-pa [Caspar – ct.] đều biết và đều có báo cáo hàng lúc cho Đờ Cuốc-xy. Cuốc-xy vẫn khinh thường thôi.
Triều đình bị bắt buộc phải kháng cự bằng võ lực hay là phải bó tay nạp các lãnh tụ ái quốc và giải tán quân đội; bằng không nạp Thuyết và giải tán quân đội [; nếu hoàn toàn không – ct.], thì Đờ Cuốc-xy sẽ nổ súng trước. Những việc đã xảy ra ở Hà-nội năm 1873 và 1882 với Gác-nhi-ê, với Ri-vi-e còn rành rành trước mắt; những bài học đau đớn của Nguyễn-tri-Phương, Hoàng-Diệu còn rành rành trước mắt, nay quan quân và nhân dân kinh thành sắp phải gặp cảnh tấn công man trá của địch thì phải làm sao? Cuộc đổ máu đêm 4-7-1885 ở Huế tuyệt đối không thể gọi là cái “bẫy trấp” của Tôn-thất-Thuyết mà là một cuộc chiến đấu tự vệ của quân và dân ta trước sự tấn công, trước âm mưu cạm bẫy của địch.
[…]
(sđd., tr. 553).
[…]
Trong lúc đạo quân trong nội kiềm chế sức tiến của giặc thì hữu quân đô thống Hồ-văn-Hiển và Nguyễn-văn-Tường rước vua Hàm-Nghi và ba cung bỏ kinh thành ra đi theo cửa tây nam. Thuyết rút quân ra sau cùng, hộ giá lên Trường-thi (ở La-chử); ở đây có một phần của đạo quân Tôn-thất-Lệ hộ tống. Cùng với xa giá chỉ còn có 100 quân mà thôi.
Cứ theo lời thuật của Lễ Tần Nguyễn-nhược-thị trong “Hạnh Thục ca” thì Từ-Dũ khi ra khỏi thành đã bảo Tường ở lại Huế để thương lượng với giặc Pháp.
Địch chiếm thành, cướp hết của cải quý báu trong hoàng cung, vàng bạc tơ lụa của nhà quan nhà dân, đốt cháy hai bộ binh và bộ lại mà Thuyết và Tường phụ trách. Khói lửa bốc, hai ngày trời mới hết.
[…]
(sđd., tr. 555).
[…]
Tường vào nhà thờ Hàm-long [Kim Long – TXA. ct.] tìm cố đạo Cát-pa (giám mục Lộc) xin nhờ Cát-pa dắt ra đầu thú với Đờ Cuốc-xy (5-7-85).
[&?!?]
Lẽ tất nhiên rằng Đờ Cuốc-xy dầu không thích Tường chút nào cũng trông mong nhiều rằng Tường có thể gỡ rối cho hắn bằng hai cách: cùng với hắn ký tên các tờ hiệu triệu nhân dân, và cố sức đem vua trở về Huế; Cuốc-xy ra lệnh cho Tường trong hai tháng phải vỗ yên bá tánh cho kỳ được; Tường [&?!?] vẫn bị giam lỏng ở dinh Thương-bạc, có lính Pháp canh gác.
[…]
(sđd., tr. 556).
[&?!?]
Nguyễn-văn-Tường gởi tên binh bộ thị lang Phạm-hữu-Dụng đi lên [ra – TXA. ct.] Quảng-trị tâu vua Hàm-Nghi rằng Đờ Cuốc-xy muốn mời xa giá trở về.
[…]
(sđd., tr. 557).
[…]
Nhưng giữa lúc Cuốc-xy bối rối vô cùng thì Từ-Dũ và Tam cung về Huế. [&?!?] Viện Cơ mật [&?!?], Nguyễn-hữu-Độ làm phó (Độ là phó vương Bắc-kỳ được Pháp tin cẩn), lập một số bộ, trong đó có bộ binh do tên khâm sứ Sam-pô [Champeaux – ct.] cầm đầu. Cuốc-xy ép đám hoàng thân cử Thọ-Xuân làm phụ chánh [đúng chức danh là nhiếp chánh – TXA. ct.], ép Thọ-Xuân làm bản tuyên cáo nói rằng Tôn-thất-Thuyết là nghịch đảng, rằng các quan ở Bắc, Trung phải cộng tác với quân Pháp để tiêu diệt nghịch đảng, v.v… Nhưng chính địch cũng phải thừa nhận rằng ông già Thọ-Xuân 76 tuổi “không có ảnh hưởng gì trong nhân dân cả”, càng không có ảnh hưởng gì với tầng lớp thân sĩ trí thức.
“Cái khả năng duy nhất của ông phụ chánh [nhiếp chính – TXA. ct.] chỉ là ký tên mà thôi”.
(Gosselin, L’Empire d’Annam [tr.? – ct.]).
[…]
(sđd., tr. 560).
[…]
Hơn nữa Cuốc-xy bắt cả những người đã đầu hàng nó [?!?– TXA. ct.] mà không làm việc được vừa ý nó, như Nguyễn-văn-Tường. Nguyên Cuốc-xy hạn định cho Tường trong 2 tháng phải “lập lại trật tự”; 2 tháng qua, Tường không lập được trật tự gì, bị Pháp bắt đưa đi Côn-lôn, rồi đi đảo Ta-hi-ti, tất cả của cải của Tường đều bị tịch thu. Tường bỏ xương [&?!?] ở hải đảo, [&?!?] minh oan với hậu thế bằng thơ:

Sơn sắc thiên trùng thương túy liễn;
Thần tâm nhất dạng luyến đan đình.
Thị phi nhiên phó thiên thu luận;
Xã tắc quân vương thục trọng khinh?

[nhất dạng – TXA. nhấn mạnh (in đậm)].
[&?!?]
(sđd., tr. 561).

Lời người biên soạn: Trong bài viết tập trung phân tích bài thơ “Giải triều…” – Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7. 1885 –, chúng tôi đã làm sáng tỏ đoạn kết của cuộc đời Nguyễn Văn Tường. Cũng trên cơ sở các văn kiện gốc trong tư liệu chuẩn cứ là ĐNTL.CB. IV, V, VI (1847 –1888), chúng tôi sử dụng thêm các tư liệu, bài viết của Puginier [17], Delvaux, H. Le Marchant de Trigon…, đã được công bố từ 1890 đến 1917, và bài viết của Jabouille, “Một trang viết về lịch sử tỉnh Quảng Trị: tháng 9.1885” [18] để minh chứng.
Tất nhiên chúng tôi cũng đã phê phán luận điệu trong bài viết “Một kinh đô phù du: Tân Sở” (1914) của H. de Pirey [19] và trong hai bài viết “Pháp đánh chiếm kinh thành Huế” (1920) và “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam” (1823) của Delvaux [20], là đầy thù hận, thiếu trung thực… Rất tiếc là hiện nay nhiều người, trong chừng mức nào đó, còn bị nhiễm độc từ ba bài viết vừa nêu của hai cố đạo vốn là linh mục quản hạt tại Quảng Trị này! Và, xin vô phép được nêu câu hỏi: Phải chăng GS. Trần Văn Giàu cũng phần nào bị “ảnh hưởng” các chi tiết xuyên tạc (vốn là thủ đoạn khích tướng, li gián của Pháp), bởi luận điệu của hai cố đạo ấy, mà chúng tôi đã lược bỏ? Chúng tôi cũng xin vô phép ngờ rằng các tác giả trong Đại cương lịch sử Việt Nam (toàn tập) [21] cũng ít nhiều chưa thoát khỏi “định kiến” do các bài báo của H. de Pirey, Delvaux nói trên gây ra? Thảo nào GS. Trần Văn Giàu còn gọi tên giám mục tả đạo vốn mang bản chất thực dân thâm độc, cuồng bạo Puginier là “ông”!
Mong GS. đọc kĩ bài viết của chúng tôi một lần nữa và quan trọng nhất là kiểm chứng lại giúp tư liệu chúng tôi đã ghi rõ xuất xứ [22].
Về hiện tượng thư từ giả, chính lá “Thư gửi thống đốc Tahiti” (trong Lô Giang tiểu sử [1927] [23]) cũng đã nói đến (thư giả trong vụ Hà Văn Quan; thư chiêu binh Trung Hoa cứu viện cho kinh đô của Nguyễn Văn Tường sau 05.7.1885). Đó là một hiện tượng không có gì lạ, ngay ở thuở bấy giờ. Chúng tôi đã trích dẫn H. Le Marchant de Trigon (thanh tra hành chính Pháp tại Đại Nam) [24] để chứng minh “Thư gửi thống đốc Tahiti” cũng là thư giả. Các tư liệu của Puginier (1890), Delvaux (1916) [25] … càng chứng minh nội dung là thư ấy là hoàn toàn bịa đặt và xuyên tạc sự thật lịch sử mà chính Lô Giang Nguyễn Văn Mại – một người càng về sau càng có khuynh hướng “hòa” hóa tất cả, rất đáng phàn nàn –, chính ông cũng không biết xuất xứ lá thư ấy ở đâu. Hơn nữa, đọc kĩ Lô Giang tiểu sử, ta thấy chính lá thư trên cũng làm đảo lộn suy nghĩ của Nguyễn Văn Mại về Nguyễn Văn Tường: từ một người lãnh tụ chủ chiến yêu nước, Nguyễn Văn Tường lại trở thành một người chủ “hòa” yêu nước!

“Sau khi đã ký hòa ước giáp thân rồi, TÔN THẤT THUYẾT không chịu qua Tòa mà thương thuyết. Vì binh quyền trong tay, thế như cỡi cọp, không thể xuống được, y muốn liều một trận. NGUYỄN VĂN TƯỜNG, ngoài mặt tuy chủ hòa, mà bề trong một lòng với THUYẾT [TXA. in đậm (iđ.)]. Vì vậy mà lập đồn TÂN SỞ, Cam Lộ… [… ]… Thế là hai bên không thể không đánh nhau được”.
“Trong kinh lúc ấy mới yên, mà Nam – Bắc bắt đầu khởi nghĩa. Ông NGUYỄN VĂN TƯỜNG tới Gia Định có ngâm câu tuyệt cú rằng:

Tây trư tựu trở bì do xích
Nam giáng li chi quả vị hoàng
[Lợn Tây lao thớt da nên trụi
Măng Việt lìa cành trái chửa vàng
– theo bản dịch của Lương An –
TXA. chua thêm (ct.)].
Về khoản kinh thành thất thủ năm Ất dậu, mới đây [khoảng 1927 – TXA. iđ. và ct.] ta được xem một bức thơ của Ông NGUYỄN VĂN TƯỜNG viết cho Ông Nguyên Soái Pháp TAHITI càng rõ hơn nữa [TXA. iđ.]” [26].

Thật ra không phải “càng rõ hơn nữa”, mà trên đường bị lưu đày, người đã ngâm hai câu tuyệt cú ấy (ám chỉ bọn Pháp xâm chiếm Huế và việc xuất bôn của vua Hàm Nghi), không thể là người viết bức “Thư gửi thống đốc Tahiti” ! Nội dung lá thư này giông giống như luận điệu của Delvaux trong 2 bài viết “Pháp đánh chiếm kinh thành Huế” [27] và “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam” [28]! Tuy nhiên, ngay trong các văn bản Delvaux nhận được từ giám mục ở Tahiti, không hề có bức “Thư gửi thống đốc Tahiti” đó, và trong bài viết “Cái chết…” nêu trên, Delvaux cũng không một chữ đề cập đến bức thư ấy!
Để phối kiểm, chúng tôi vẫn căn cứ vào tư liệu gốc [29] (chứ không phải là thứ “tư liệu vu vơ”!):

1. Hai mật dụ của Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết từ Tân Sở gửi về;
2. Bản án cáo thị của De Courcy, De Champeaux;
3. BẢN ÁN CHUNG THẨM của ngụy triều Đồng Khánh (một bên, có chữ kí của De Courcy! [30]);
4. Dụ, cáo thị cho các tỉnh tả kì của Đồng Khánh, Hector, Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm, Phạm Phú Lâm…
[ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 225 – 228, 247; tập 37, Nxb. KHXH., 1978, tr. 35, 138…].

Chỉ xin nhấn mạnh: qua cáo thị trấn áp, khuyến cáo sĩ phu, nhân dân các tỉnh tả kì này của thực dân, ngụy triều, ta còn thấy rõ lòng trung thành của phong trào Cần vương đối với Nguyễn Văn Tường sau khi ông đã bị lưu đày [31]. ĐNTL.CB. còn ghi rõ Phạm Phú Lâm, Phan Liêm đã trả với giá phải vay như thế nào trong thời gian làm khâm sai ấy [32]. Và trước đó, cuộc “sát tả” đã bùng lên ở Quảng Trị vào trưa 06.9.1885, ngay sau buổi sáng Nguyễn Văn Tường bị bắt [33].
Cũng xin đưa ra ba chi tiết sai lầm trong “Thư gửi thống đốc Tahiti”:

1. Nếu có sự bất đồng giữa Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, thì sao lại có hai mật dụ vừa ân tình, vừa cụ thể về công việc triều chính đến thế?
2. Chẳng lẽ Nguyễn Văn Tường không nhớ mình đã bị lưu đày sau Tôn Thất Đính, Phạm Thận Duật (hai người này bị bắt vào Gia Định trước)?
3. Chẳng lẽ Nguyễn Văn Tường nhớ nhầm ngày không thể nhầm được là ngày Kinh Đô Quật Khởi (trong thư lại ghi là đêm 23 rạng ngày 24.5 Ất dậu, 1885, nhưng đúng sự thật lịch sử chính là đêm 22 rạng ngày 23.5 Ất dậu, 1885!)?

Nói rõ hơn, các tư liệu đều khớp với nhau, kể cả bài thơ “Giải triều…”, chỉ ngoại trừ luận điệu của Delvaux (BAVH., 1920, 1923) và “Thư gửi thống đốc Tahiti” (không có xuất xứ trong LGTS., không giám định được bằng phương pháp thực nghiệm!). Từ sự phối kiểm đó, chúng tôi kết luận “Thư gửi thống đốc Tahiti” không phải thư thật. Để kết luận chắc chắn hơn về lá thư này, cần đọc trọn vẹn “Lô Giang tiểu sử”, ở đó, thể hiện rõ thái độ chính trị của Nguyễn Văn Mại, trong điều kiện hạn chế thời bấy giờ?
Nói rõ ra, chúng tôi tin chắc rằng lá “Thư gửi thống đốc Tahiti” đã được bịa ra, do những người chủ “hòa”, nhằm mục đích biện minh cho chính họ: người sáng suốt, có học (như Nguyễn Văn Tường) thì không thể “sát tả” được; chỉ người nóng nảy, ít học (như Tôn Thất Thuyết) mới chủ trương “sát tả” mà thôi!
Các thao tác phối kiểm, chúng tôi đã thể hiện rõ ở bài viết Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885, cùng các trích dẫn trực tiếp nguyên văn các bản dịch.
Bi kịch Nguyễn Văn Tường là bi kịch của một người có tâm huyết, nhưng khi bắt đầu bước lên vũ đài chính trị thì bối cảnh lịch sử đã quá khó khăn, thất thế; khi cùng Tôn Thất Thuyết thật sự nắm lấy quyền lực bằng những hành động sáng suốt, táo bạo, thì ít nhiều cũng gây va chạm với phe bảo hoàng ngu trung, chủ “hoà”, và thực chất cũng đã quá muộn, khó bề cứu vãn tình cảnh Đất nước. Bi kịch của Nguyễn Văn Tường là bi kịch của một lãnh tụ yêu nước, chống Pháp, chống tả đạo, phải đảm đương một nhiệm vụ lịch sử rất éo le, dễ gây ngộ nhận, trong kế sách vừa đánh vừa đàm, sau khi kinh đô quật khởi nhưng bị thất thủ; rồi từ đó, Đất nước hoàn toàn rơi vào tay giặc Pháp và tả đạo, trong một thời gian quá lâu (1885 – 1954; riêng ở Miền Nam, mãi đến năm 1975), đến nỗi những tuyên truyền bôi nhọ của giặc Pháp và tả đạo đã trở thành định kiến trong não trạng của vài ba thế hệ! Đó còn là bi kịch của một phụ chính đại thần có uy tín và ảnh hưởng lớn trong một giai đoạn lịch sử mà ở đó các chính kiến, hệ ý thức va chạm nhau gay gắt, với những lăng kính khác nhau (bảo hoàng ngu trung, chủ “hòa”, thân Pháp, thân tả đạo là các khuynh hướng càng về sau càng lấn lướt, thắng thế); do đó các thứ được gọi là “tư liệu” lại rất rối nhiễu, dễ gây hoang mang!
TXA.


III. LỜI THƯA CUỐI CHUYỆN ĐỂ TẠM KẾT THÚC VẤN ĐỀ:

Lời người biên soạn: Trên đây là những đoạn, những câu trích từ bộ sách Chống xâm lăng của GS. Trần Văn Giàu (và những ghi chú của chúng tôi). Những chỗ chúng tôi mạn phép lược bỏ, vẫn còn nguyên vẹn trong hàng vạn bản sách của GS., tất nhiên GS. phải chịu trách nhiệm trước lương tâm và công luận! Theo thiển ý, chúng tôi tự thấy đã đặt các kí hiệu và dấu biểu cảm đúng chỗ, phù hợp với nguyên tắc trích dẫn.
Thật ra, chỉ với ĐNTL.CB. IV, V, VI (1847 – 1883; 1883 – 1885; 1885 – 1888), bằng cách đọc theo quan điểm, lập trường dân tộc, nhân dân, theo đạo lí Việt Nam, công lí nhân loại chân chính, tiến bộ **, thì không một ai, kể cả danh nhân, nhà yêu nước ngây thơ nhất, có thể bị lung lạc mà vô tình tiếp tay giặc Pháp đập tan tành Nguyễn Văn Tường được. Và tuy rằng bị mắc mưu tuyên truyền bôi nhọ, cũng không một ai có thể đứng trên lập trường “bảo hoàng hơn vua”, Đại Hán chủ nghĩa, liên kết với một số tín đồ Thiên Chúa giáo, cho dù như cụ Phan Bội Châu kính mến (? vong bản?) đã trót lỡ, mà đảo ngược nổi sự thật lịch sử về Nguyễn Văn Tường, vốn đã được ĐNTL.CB. IV, V, VI ghi nhận và bảo chứng!
Ở đây, để tỏ lòng kính trọng GS. Trần Văn Giàu, chúng tôi mạn phép trích dẫn và bình chú, đồng thời xin phép góp ý với GS. trong tinh thần dân chủ mới đích thực (điều mà chúng ta vẫn đang khao khát, vì ai cũng chán ghét thái độ học phiệt trong học thuật!) ***.
Hi vọng GS. sẽ có dịp đọc những cuốn sách của chúng tôi biên soạn và viết về Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), đặc biệt là cuốn “Tiểu sử biên niên về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp”” và bộ truyện kí lịch sử (truyện – sử kí)**** Phụ chính Nguyễn Văn Tường gồm bốn tập, vốn lấy chuẩn cứ là ĐNTL.CB. các kỉ đã nói trên. Với các cuốn sách của chúng tôi, mong rằng sẽ góp phần nhỏ để chấm dứt tình trạng người nói xuôi kẻ nói ngược rất rắc rối, tà tâm, học phiệt, và khá vớ vẩn!
Tuy nhiên, để càng sáng tỏ hơn, vấn đề còn lại vẫn là kho châu bản triều Nguyễn ở TP. HCM., và làm thế nào để khai thác thêm các kho lưu trữ hồ sơ tư liệu của thực dân ở Pháp, ở Vatican (mặc dù từ đầu thế kỉ XX đến nay phía thực dân và Vatican đã đưa ra công luận phần lớn các tư liệu gốc của Pháp, Hội Truyền giáo hải ngoại Paris, và cả tư liệu gốc của Vatican như chúng tôi đã trích dẫn*****). Dĩ nhiên, vấn đề giám định thực nghiệm tư liệu với các phương tiện khoa học, kĩ thuật hiện đại, tinh vi nhất, với các phương pháp xác minh liên ngành tiên tiến nhất không thể không đặt ra! Và sự chứng kiến, xác nhận của các sử gia trên thế giới cũng hết sức quan trọng! Đó là yêu cầu chung trong phương pháp luận nghiên cứu sử học trước bất kì nhân vật, sự kiện, giai đoạn lịch sử nào.
Chúng tôi hoàn toàn tự tin về những dòng chữ đã viết về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886).

Kính mong các bài viết của chúng tôi về Nguyễn Văn Tường được đăng tải trên báo chí cho rộng đường bình luận công khai, để đi đến kết luận cuối cùng có tính khoa học nghiêm túc, đích thực.

Kính mong được chỉ giáo.
Trân trọng.


TRẦN XUÂN AN

CƯỚC CHÚ bài TRÍCH ĐOẠN “CHỐNG XÂM LĂNG”
(VÀ NHƯ MỘT CÁCH ĐỐI THOẠI VỚI GS. TRẦN VĂN GIÀU)


[1] GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.), trọn bộ, Nxb. TP. HCM. tái bản, 2001.
[2] Hướng đến việc thực hiện mục tiêu lí tưởng là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đích thực: “dân chủ vạn lần hơn nền dân chủ tư sản” (Lénine), chúng tôi thấy trước hết phải nỗ lực thúc đẩy thực thi dân chủ trong học thuật, văn chương. Dân chủ trong học thuật, văn chương là minh bạch nhất, bởi không có gì minh bạch hơn giấy trắng mực đen!
[3] Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), bản dịch Tổ Phiên dịch Viện Sử học, các tập 27 – 38, Nxb. KHXH., 1973 – 1978.
[4] Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), tập 3, bản dịch Tổ Phiên dịch Viện Sử học, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 427 – 467.
[5] Từ điển văn học (TĐVH.), Nxb. KHXH., 1883 – 1884, tr. 346 – 347 [tập I], tr. 445 – 446 [tập I], tr. 548 – 549 [tập II]).
[6] CXL., sđd., tr. 7 – 12.
[7] Xem: tờ tâu của Quốc sử quán, ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 8.
[8] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 5 và tr. 13.
[9] Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH. [BAVH., 1916]), tập 3, nhiều người dịch, Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 29. Xem chú thích 25.
[10] Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973.
Xin xem thêm chú thích (8) cuối bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885” của chúng tôi.
[11] Bản dịch của Tổ Phiên dịch Viện sử học Việt Nam, Nxb. KHXH., 1973 – 1976.
[12] Xin xem ý nghĩa các kí hiệu này ở những cụm từ in nghiêng ngay các dòng bên trên. Mạn phép giới thuyết rõ hơn:
[…]: tạm cắt bỏ.
[&?!?]: còn có thêm những câu chữ đáng thắc mắc, phàn nàn.
[?!?]: vẫn trích nhưng nghi ngờ, không đồng ý.
[13] Xem: Châu bản triều Nguyễn về Nguyễn Văn Tường, gồm ba tập văn chính luận (tấu, sớ…). Nhờ được các quan ở Viện, Các tạo điều kiện, nên hậu duệ cụ Nguyễn Văn Tường đã sao chép được các tập văn này từ nguyên bản, vào những năm đầu thế kỉ XX. (Ngoài ra, còn có một tập thơ: Kì Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường thi tập; cũng do hậu duệ lưu giữ hoặc sưu tầm lại được). Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc, Trần Đại Vinh đã sao chép, dịch và công bố những phần quan trọng.
[14] ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 197; tập 36, sđd., tr. 214 – 215; xem thêm: tập 30, sđd., tr. 170 – 171; tập 31, sđd., tr. 86 – 89, 103; đặc biệt, xin vui lòng xem kĩ tiểu mục 3.a.3 của bài Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885 của chúng tôi.
[15] ĐNTL.CB., tập 31, sđd., bản tấu tháng 3 âl., tr. 202 – 204.
* Xem thêm: Tự Đức, Thơ văn Tự Đức, tập II, Ngự chế văn tam tập, bài “Đuổi viên hành nhân Nguyễn Hoằng” [linh mục], Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1996, tr. 176 – 177; Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn, bài “Tòa Khâm sứ Pháp”, Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 78 – 101; H. Cosserat, bài “Người ta viết sử như thế nào: Đón tiếp đại tá Guerrier tại triều đình nước Nam ngày 17.8.1884”, NNBCĐH. (BAVH., 1924), tập XI, Phan Xưng dịch, Nxb. TH., 2002, tr. 373 – 397; và nhiều bài viết khác của thực dân, tả đạo Pháp trong BAVH. [xin xem cuối bài viết này của chúng tôi]. Dĩ nhiên ai cũng biết, cần phải nghiên cứu với cách đọc chủ yếu là đọc vào thái độ thù hận của các tác giả vốn là thực dân, tả đạo người Pháp ấy đối với Nguyễn Văn Tường, nghĩa là đọc vào thái độ thù – bạn, địch – ta của chúng.
[16] Xin xem: ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 151, 167, 176 –177 .
[17] Tư liệu Hội Truyền giáo Bắc kì, ngày 09.3.1890, dẫn theo GS. Nguyễn Văn Kiệm, Kỉ yếu Hội nghị khoa học lịch sử với đề tài “Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, 20.6.1996, ĐHSP. TP.HCM., tr. 14; Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH.) [BAVH., 1916, 1917], bản dịch, sđd.. Xin xem các chú thích 24, 25.
[18] Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH.) [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng, Hà Xuân Liêm dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, 2002, tr. 434, 439…
[19] NNBCĐH. (BAVH., 1914), tập 1, Đặng Như Tùng dịch, Bửu Y hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 224 – 234.
[20] NNBCĐH. (BAVH., 1920, 1923), bản dịch, sđd.. Xem chú thích 27 và 28.
[21] Nhiều tác giả, Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập, Nxb. Giáo dục, 2001, tr. 534 – 537.
[22] NNBCĐH. [BAVH., 1914 – 1924], 11 tập và một tập bản dẫn, bản dịch của nhiều dịch giả, Nxb. Thuận Hóa, 1997 – 2002.
[23] Lô Giang Nguyễn Văn Mại, Lô Giang tiểu sử (LGTS.), Nguyễn Hy Xước dịch, bản in ronéo, 1961, tr. 34, 38 – 39.
[24] Henry Le Marchant de Trigon, bài “Vị đại biện đầu tiên của nền bảo hộ đến Huế”, NNBCĐH. [BAVH., 1917] , tập IV, Đặng Như Tùng dịch, Tôn Thất Hanh hiệu đính, Nhị Xuyên, Lê Văn biên tập, Nxb. TH., 1998, tr. 273…
[25] Aldophe Delvaux, bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên”, NNBCĐH. [BAVH., 1916], tập 3, Đặng Như Tùng dịch, Phan Xưng, Bửu Ý, Đỗ Hữu Thạnh, Hà Xuân Liêm hiệu đính, Nxb. TH.,1997, tr. 29 – 89…
[26] LGTS., Nguyễn Hy Xước dịch, bản in ronéo, 1961, tr. 34, 38 – 39.
[27] NNBCĐH. [BAVH., 1920], tập VII, Bửu Ý, Phan Xưng dịch, sđd., tr. 338 – 375.
[28] NNBCĐH. [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, sđd., tr. 478 – 483.
[29] Xin nhấn mạnh các tư liệu gốc này: ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 225 – 228, 247; tập 37, Nxb. KHXH., 1978, tr. 35, 138…
[30] Theo Delvaux, “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, bđd., sđd..
[31] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 138.
[32] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 197, 222; tập 38, sđd., tr. 12, 13.
[33] Jabouille, “Một trang viết về lịch sử tỉnh Quảng Trị: tháng 9.1885”, NNBCĐH. [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng, Hà Xuân Liêm dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, sđd., tr. 434, 439…
** Xin xem lại bài viết của chúng tôi: “Cách viết sử theo tiêu chí ngược ở Đại Nam thực lục chính biên kỉ đệ lục (1885 –1888) và cách viết sử xuyên tạc bằng sự đảo ngược sự thật lịch sử ở một vài trang trong Việt Nam vong quốc sử”.
*** Trên Tạp chí Xưa & Nay, số 29, tháng 7. 1996, GS. Nguyễn Văn Kiệm đã viết trong bài “Ghi nhận về cuộc hội thảo khoa học: Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường [20.6.1996]” như sau: “GS. Trần Văn Giàu bày tỏ sự xúc động khi nhìn bức ảnh chụp Nguyễn Văn Tường nằm trên giường bệnh ở Tahiti, và tuyên bố từ bỏ những ý kiến đánh giá trước đây của mình về nhân vật lịch sử này, và kể từ nay thừa nhận Nguyễn Văn Tường là một trong số những đại quan yêu nước khác của triều đình Huế”.
Bài “trích đoạn và đối thoại” trên đây dẫu sao vẫn rất cần thiết, một khi vào năm 2001, “Chống xâm lăng” vẫn được tái bản, không sửa chữa.
Vả lại, đây chỉ là một vấn đề thuần tuý thuộc về sử học, lại là sử học về một giai đoạn đã cách đây hơn một thế kỉ. Tôi thường nghĩ: Không một ai không từng phạm sai sót nào, kể cả danh nhân, anh hùng chiến đấu và anh hùng lao động từ xưa đến nay, và không một ai có quyền tự cho bản thân cá nhân mình là đại diện tiêu biểu cho một triều đại, một chế độ. Nói trắng ra, tôi mạn phép đối thoại, phản biện với GS. về điểm này hay điểm nọ, trong sự giới hạn vấn đề, không có nghĩa là phê phán chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta, một chế độ đã có công rất lớn trong việc đánh bại những nước thực dân, đế quốc, bành trướng hung hãn nhất trên thế giới: Pháp, Mỹ, bá quyền Trung Quốc (có thể kể cả việc góp phần tiêu diệt phát xít Nhật). Bản thân tôi rất sợ những quy chụp ấu trĩ kiểu đó. Xin nói thêm cho rõ. TXA.
**** Truyện kí – khảo cứu lịch sử (khảo cứu lịch sử với đầy đủ các thao tác nghiên cứu khoa học, nhưng được viết dưới dạng truyện kí lịch sử).
***** - Bulletin des amis du vieux Huế, 1914 – 1944 (đặc biệt là bài của Aldophe Delveaux, Phái bộ Pháp và những phái viên đầu tiên ở Huế, 1916, và bài của Henry Le Marchant de Trigon, Vị đại biện đầu tiên đến Huế, 1917…);
- Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam, 1957 – 1914” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp, 1969, bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973; Nxb. Tôn Giáo tái bản với bản dịch mới của Nguyên Thuận, 2003;
- Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, luận án tiến sĩ tại Pháp, 1982, UB. KHXH. TU. TP. HCM. xb., 1990;
- Puginier, Tư liệu Hội Truyền giáo Bắc kì, ngày 09.3.1890, dẫn theo GS. Nguyễn Văn Kiệm, Kỉ yếu Hội nghị khoa học lịch sử với đề tài “Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, 20.6.1996, ĐHSP. TP.HCM.. … v. v…
TXA.



Bài thứ sáu

GS. BỬU KẾ
(1914 – 1989)
(cố học giả, dịch giả, GS. Đại học Văn khoa Huế)

TOÀ KHÂM SỨ PHÁP

(MỘT TUỲ BÚT – KHẢO LUẬN VỀ LỊCH SỬ,
VÀ VÀI NÉT BÌNH CHÚ)


Trước Cách mạng Tháng tám năm 1945 [(1885 – 1945) – TXA. chua thêm (:ct)], tuy nước ta là một nước quân chủ, vua là bậc chí tôn, nhưng thật ra uy quyền kém hẳn viên khâm sứ.
Dưới ông khâm sứ, còn có các ông công sứ, các ông cố vấn bộ Lại, Hộ, Binh, Hình, Công. Các quan thượng thơ của ta muốn làm việc gì, nhất nhất đều phải gởi dạng bản đến để họ xem trước. Họ có chấp thuận mới được thi hành, bằng không thì phải gác lại. Cho đến những quyền hành nhỏ mọn như bổ dụng một viên thừa phái hạng bét hay chi tiêu một món tiền cỏn con cũng phải qua tay người Pháp.
Cái uy quyền đó đã tiêu tan theo cuộc đảo chánh Nhật Bản ngày 9.3.1945, còn Tòa Khâm sứ Pháp thì phần lớn đã bị đổ nát theo bom đạn trong cuộc chiến tranh chống Pháp, những căn nhà còn lại thì mái trụt tường xiêu, cỏ cây hoang dại ăn lan từ sân trước đến sân sau, diễn ra cảnh thê lương sau hơn 80 năm đô hộ [(1862? – 1945?) – TXA. ct.]. Nay Trường Đại học Sư phạm Huế được xây dựng ở đó.

@

Viên khâm sứ Pháp xuất hiện trên đất cố đô này do điều khoản 20 của hiệp ước Giáp tuất kí kết ngày 15.3.1874 giữa hải quân thiếu tướng Đuypơrê (Dupré) và Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường. Trong [cưỡng ước – ct.] đó khoản 15 [đúng ra là khoản 13 – ct.] định rằng: Nước Pháp được đặt quyền lãnh sự các cửa bể và các thành thị để mở ra cho ngoại quốc vào buôn bán.
Theo hiệp ước Giáp tuất còn có một thương ước nữa kí ngày 30.8.1874. Các điều khoản 2, 6, 7 của thương ước này cho viên khâm sứ quyền xuất cảng gỗ lim, gạo và tơ tằm. Thế là bao nhiêu sản phẩm quý giá của ta, người Pháp có toàn quyền mua để đem về xứ hay bán đi các nước khác.
Sợ các quan ta, nhất là các quan ở thương cảng có thể gây trở ngại, trong thương ước này còn nói thêm: Viên khâm sứ có quyền chấp nhận hay không chấp nhận các viên quan phục vụ tại các hải cảng mở ra để giao thiệp với Pháp. Như vậy có nghĩa là nhưng kẻ nào chống đối lại người Pháp có thể bị thải hồi hay đổi đi làm việc ở một nơi khác.
Sau hiệp ước Giáp tuất được kí kết, ngày 15 tháng 01 năm 1875, thượng thư hải quân Pháp gởi thư cho thống đốc Nam kì Đuyperê [Duperré – ct.], yêu cầu đề cử một người giữ chức khâm sứ để giao thiệp với Triều đình Huế. Và Đuyperê đã cử Râyna đề Étxa (Rheinart des Essart), sanh ngày 01.11.1840, xuất thân đại úy hải quân lục chiến, từng làm tham biện tại Soái phủ ở Sài Gòn và công sứ ở Hà Nội.
Râyna đi trên chiếc thuyền Ăngtilốp (Antilope) và tới Thuận An vào ngày 25 tháng 7. Bên ta phái một viên quan Bộ Lễ về Thuận An nghinh tiếp, sau đó đưa về công quán. Hai ngày sau, ông Râyna sang thăm các quan Thương bạc (tức là quan Ngoại giao của ta) và được thượng thư Nguyễn Văn Tường đón tiếp niềm nở. Cuộc bang giao ban đầu diễn ra tốt đẹp (như Râyna bị ốm, vua Tự Đức liền cho người đến hỏi thăm sức khoẻ), nhưng về sau, giữa viên khâm sứ Pháp và Triều đình Việt Nam trở nên thù hằn chỉ chờ cơ hội để hại lẫn nhau.
Lúc Râyna đến Huế thì Tòa Khâm sứ chưa xây cất nên phải tạm trú tại công quán mà Triều đình Huế dùng để đón tiếp các nhà ngoại giao các nước. Công quán này tuy bằng tranh nhưng cũng khá đẹp, trước mặt có cột cờ, chung quanh có tường, viên khâm sứ ở đây với Priơ (Prieux), quan cai trị hạng nhất, Đôphanh (Dauphin), thư kí, Xuliê (Souliers), bác sĩ, Phơlơri (Fleury), thợ làm bánh mì, Đôm (Dhomps), quản gia, và một viên chủ Sở Công chánh ra Huế để lo việc xây cất Tòa Khâm sứ. Lúc bấy giờ ở Huế chỉ có mấy giáo sĩ và 7 người Pháp kể trên là được phép lưu trú mà thôi. Ngoài ra, trong Sứ quán còn có một viên thông ngôn, những người đầu bếp và một số ít lính đều là người Việt.
Công việc trước tiên của Râyna khi đến Huế là chọn đất để làm Tòa Khâm. Trong thương ước, có khoản nói rằng: Chánh phủ Việt Nam nhường không cho Chánh phủ Pháp đất đai cần thiết để làm nhà cho các viên công sứ hay nhân viên tùy tùng ở. Tuy thế, Triều đình Huế chỉ bằng lòng để cho Râyna sử dụng những mảnh đất thật xa thành phố, lại ẩm thấp, cứ đến mùa mưa thì ngập nước. Những nơi mà Râyna vừa ý thì các quan ta lại không thuận, lấy cớ đất ấy là của riêng nhà vua hoặc của các ông hoàng bà chúa, hay sắp dùng để xây cất đền này đài nọ v.v…
Râyna thấy ta làm khó dễ, nên đã quyết định bảo với viên chủ Sở Công chánh Sămbe (Sambert), cùng với những người giúp việc đến nhà thờ Lịch Đại (gần ga Huế), đóng nọc định làm bừa Tòa Khâm sứ ở đó. Sợ Râyna liều lĩnh xâm phạm nơi thờ phụng, nên Triều đình Huế bằng lòng cho mảnh đất nơi công quán, mà Râyna hiện đang tạm trú. Mảnh đất này nằm tại hữu ngạn sông Hương, gần cầu Trường Tiền. Dần dần lâu đài, dinh thự lập lên chung quanh vùng này và tạo thành một khu vực mang tên là khu vực của người Âu (tuy gọi thế chứ phần nhiều là của người Pháp).
Tòa Khâm sứ chiếm một khoảng đất vào lối 200 thước vuông. Nhân công (chừng 30 người Trung Hoa) và vật liệu đều đưa từ Sài Gòn ra, chỉ trừ vôi và cát mua ở Huế. Làm tầng dưới xong, lúc xây tầng trên, Râyna bị các quan ta phản đối vì lẽ Toà Khâm dám vô lễ xây cao hơn cung điện của vua. Và khi lợp mái nhà bằng những lá kẽm thì lại gây ra dư luận cho rằng người Pháp sợ ta bắn đại bác vỡ mái nhà nên không dám lợp ngói. [Sở dĩ có dư luận xem ra có vẻ buồn cười ấy, tất nhiên không phải vì dân kinh đô cổ lỗ, mặc dù trước vật liệu xây dựng khá mới lạ đối với miền nhiệt đới là tôn kẽm, mà vì tôn kẽm rất nóng bức đối với người ở, nhưng Pháp vẫn cố chịu đựng (?) – TXA. ct].
Nhưng về sau mọi trở ngại đã được dàn xếp và Tòa khâm vẫn làm theo họa đồ đã vẽ từ trước.
Râyna là một tay thực dân hạng nặng, vì thế nên mối bất hòa giữa ông với Triều đình Huế mỗi ngày một trở nên trầm trọng. Nhà cầm quyền Pháp thấy rằng nếu để ông thì bất lợi cho đường ngoại giao trong buổi ban sơ nên đã ra lệnh triệu hồi, khiến ông không kịp dự vào lễ khánh thành Tòa Khâm sứ.

@

Người thay Râyna là Philát (Philastre). Ông đến Huế vào ngày 14.12.1876. Qua đến tháng 7 năm 1878, Tòa Khâm hoàn thành và phí tổn đến một triệu quan Pháp.
Trái với Râyna, Philát tỏ ra biết điều hơn, chẳng bao lâu lại bị thay. Người thay thế ông không ai khác hơn là Râyna, có thể áp đảo Triều đình Huế được.
Tình thân thiện Việt – Pháp đã mất đi từ ngày Philát từ giã cố đô Huế. Vua Tự Đức cũng như Râyna không có thái độ nhân nhượng lẫn nhau, tình thế bỗng nhiên trở nên căng thẳng. Có những vấn đề gì quan trọng, Râyna phải khó khăn lắm mới vào yết kiến vua Tự Đức được. Một việc rắc rối đã xảy ra khiến viên khâm sứ Pháp không bao giờ quên: Râyna cùng với bác sĩ Xuliê đi thuyền lên Kim Long, lúc trở về thì bị quân lính ta chặn lại, buộc phải lên bộ đi băng qua mấy cánh đồng để trở về Tòa Khâm sứ, vì vua Việt Nam đang câu cá trên sông, thuyền của người Pháp không thể đi ngang qua đó.
Thế rồi vua Tự Đức gởi hai phái đoàn sang Bắc Kinh và Vọng Các [Bangkok – ct.] để nối lại tình giao hảo với hai nước đã bị Pháp cắt đứt.
Đến cuối tháng năm 1880, Tôn Thất Thuyết chuẩn bị cuộc chống Pháp và qua tháng bảy năm ấy, vua ta ban hành một đạo dụ nói rằng: Những kẻ buôn lậu tiền đồng, ngay cả người Âu cũng vậy, đều bị phạt trượng.
Đạo dụ này khiến người Pháp hết sức bất bình. Vì theo hiệp ước đã kí giữa hai nước thì mỗi khi người Pháp phạm tội, chỉ có tòa án Pháp là có quyền xử họ mà thôi, còn các quan ta không có quyền căng nọc ra, dùng trượng mà đánh như trong dụ đã ban hành.
Chưa đủ phương tiện để gây hấn với Triều đình Huế, chính quyền Pháp lại một lần nữa thay đổi khâm sứ. Palát đơ Sămpô (Palasme de Champeaux) thay thế Râyna vào tháng 10 năm 1880.
Sămpô là cựu sĩ quan hải quân, đã từng giúp việc tại Soái phủ ở Sài Gòn, biết tiếng Việt và thông hiểu tánh tình, phong tục của dân ta. Ban đầu mối bang giao có thể tương đối gọi là tử tế, nhưng chẳng bao lâu mối bất hòa lại xảy ra. Ngày 15.8.1881, Sămpô ra Bắc, nhưng đến năm 1883, sau khi Thuận An thất thủ, ông cùng toàn quyền Hátmăng (Harmand) về Huế nghị hòa và kí kết hiệp ước.
Trong thời gian Sămpô ra Bắc, lại vẫn Râyna đến thay thế. Mối bất hòa sẵn có nay trở nên sâu đậm hơn. Một người giúp việc ở Tòa Khâm sứ bị quan ta bắt giam. Râyna biết rằng không thể dùng phương pháp thương lượng để tiến đến việc đô hộ nước ta được, nên đã viết thư cho Tômxông (Thomson), thống đốc Nam kì, trong đó có câu: “Với những cuộc thương thuyết, ta không thâu hoạch được một chút nhượng bộ nhỏ mọn nào; chỉ dùng sức mạnh mới chiếm được một cái gì mà thôi” [TXA in đậm (:iđ.)]. Trong một đoạn khác, ông lại viết: “Nhiệm vụ của viên khâm sứ ở Huế còn trở nên vô dụng trong một thời gian lâu hơn nữa, vì họ chỉ nhượng bộ sức mạnh. Về phần tôi, tôi sẽ gặp vô cùng khó khăn hơn bất cứ một ai để được hưởng đôi chút nhượng bộ. Trong thời kì đầu tiên ở Huế, tôi đã có nhiều việc rắc rối với Triều đình và từ đó viên thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường, lúc này đối với nhà vua là người rất có thế lực, hết sức căm thù tôi, sau những vụ bất hòa giữa ông và tôi” [TXA. iđ.].
Lúc này lại xảy ra mấy việc trọng đại: Quân Pháp chiếm Nam Định và Hòn Gay, khiến dư luận trong nước rất sôi nổi. Lòng căm thù người Pháp sôi lên sùng sục. Tômxông khuyên Râyna phải thận trọng trong khi chờ người thay thế, có thể tạm lánh xuống mấy chiếc tàu đậu gần Huế, nhưng không nên cắt đứt dây liên lạc ngoại giao với Chánh phủ Việt Nam.
Mặc dầu Tômxông đã căn dặn, Râyna trước thời cuộc biến chuyển, trước những cuộc chuẩn bị chiến tranh của ta, đã quả quyết rời Huế về Sài Gòn. Ông ta đến nơi vào ngày 06.5.1883 trên chiếc Paxơvan (Patceval) cùng với hồ sơ và tất cả nhân viên Tòa Khâm sứ. Viên thống đốc Nam kì ngạc nhiên hết sức.
Râyna ra đi không phải với một niềm lưu luyến, với tiệc rượu tiễn đưa, tiếng sâm banh nổ vang như pháo mà với một thái độ hung hăng dọa nạt. Ông ta khóa cửa Tòa Khâm lại, giao chìa khóa cho các quan Thương bạc. Nhưng các quan ta không nhận. Râyna hách dịch ném chìa khóa xuống đất mà nói: “Từ đây nếu có một sự cướp phá nhỏ mọn nào xảy ra thì Chính phủ Nam triều phải chịu trách nhiệm”.
Thấy Râyna hậm hực ra đi, Triều đình Huế không khỏi lo ngại. Vì ngày nào còn viên khâm sứ ở đó, chắc người Pháp chưa dám đánh với chúng ta. Vì nếu xảy ra chiến cuộc thì viên khâm sứ có thể lâm nguy trong khi chưa có quân lính để hộ vệ. Nay Râyna vào Sài Gòn biết đâu không kéo quân ra để gây sự?
Chìa khóa mà Râyna bỏ lại, các quan Thương bạc cho cầm đến nhờ giáo sĩ Cátpa (Caspar) giữ hộ, nhưng ông này từ chối.
Sau nhiều lần thương thuyết, Cátpa chấp thuận biện pháp này: Chìa khóa bỏ vào trong một cái tráp để tại Tòa Khâm sứ. Cửa ngoài khóa lại, niêm phong tử tế, có một hội đồng cứ 10 ngày đến khám con niêm một lần. Giáo sĩ Cátpa phái linh mục Rơnôn (Renauld) sung vào hội đồng này.

@

Trong lúc Tòa khâm vắng bóng viên khâm sứ, những việc quan yếu khác lại xảy ra.
Tại Bắc kì, quân ta hợp tác với quân Trung Hoa đã chuyển từ thế hòa ra thế công [TXA. iđ.]. Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản, phó kinh lược sứ Bùi Ân Niên đem binh đóng ở huyện Gia Lâm, kéo sang đánh thành Hà Nội. Hoàng Tá Viêm sai Lưu Vĩnh Phúc làm tiên phong đem quân đóng ở phủ Hoài Đức, chuẩn bị tấn công quân Pháp.
Sáng ngày 13 tháng 4 năm 1883, đại tá Hănri Rivie (Henri Rivière) đem 500 binh sĩ tiến đánh vùng Ô Cầu Giấy, bị quân ta mai phục chung quanh đổ ra giáp chiến. Đại tá Rivie tử trận, đại úy Bectơ đơ Vile (Berthe de Villers) bị thương. Trận này binh sĩ Pháp vừa bị chết vừa bị thương vào lối 100 người.
Với cuộc thất trận này, Chánh phủ Pháp đã phản ứng bằng cách gửi sang quân tiếp viện. Hạ nghị viện Pháp chấp thuận bỏ ra một ngân khoản 5 triệu rưỡi quan để chi phí vào công cuộc cướp nước. Còn bên ta thì Triều đình Huế đã tổ chức những tiệc vui, đã ban thưởng những người tham chiến.
Việc nước đang trăm phần rắc rối, chiến cuộc Việt – Pháp chưa biết rồi đi đến đâu thì vua Tự Đức mất (16.6 năm Quý mùi, 1883). Vua Dục Đức lên ngôi ba ngày thì bị Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường truất phế. Em vua Tự Đức là Lãng quốc công, húy Hồng Dật, lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.

Người biên soạn ghi chú thêm vào giữa bài viết của GS. Bửu Kế: “… Trong ba người con, thì Tự Đức thương yêu Ưng Đăng hơn cả. Ưng Chân, mặc dù không được thương yêu bằng hai em, nhưng vì là con trưởng, một lí do chính đáng để được thừa hưởng ngai vàng. Vả lại, lúc bấy giờ, giặc Pháp đang gây chiến, trong nước cần phải có một ông vua lớn tuổi, nên Dực Tông Anh hoàng đế buộc lòng phải để di chiếu giao ngôi báu lại cho Ưng Chân, lấy niên hiệu Dục Đức.
Nhưng khi để di chiếu, vua Tự Đức lại nói đến những tánh hư tật xấu của hoàng trưởng tử, mặc dù Trần Tiễn Thành *, phụ chánh đại thần, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, đồng phụ chánh đại thần, đã dâng sớ xin vua bỏ đoạn nói về tánh xấu của tự quân và mấy chữ “chưa chắc đương nổi việc lớn” (… vị tất năng đương đại sự) [TXA. iđ.]. Nhưng vua không nghe, cho rằng nhưng lời trong di chiếu như cả một tiếng chuông cảnh tỉnh, sẽ làm cho Dục Đức lo sợ mà thay đổi tánh tình”.

(Chúng tôi đã mạn phép trích đúng nguyên văn từ một bài viết khác, kể cả chú thích về Trần Tiễn Thành, của chính GS. Bửu Kế, được in trong cùng một cuốn sách của học giả hoàng tộc này [1], để chèn vào ngay giữa bài mà chúng ta đang đọc, nhằm làm rõ hơn ý tưởng của GS. Bửu Kế.
Và chúng tôi thấy cần nói rõ thêm một điều rất thừa mà Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược (1921) đã khẳng định: Dục Đức thường xuyên đi lại với người Pháp, thân Pháp:
“Bấy giờ ông Rheinart lại sang làm khâm sứ ở Huế […]lại nhớ ông Dục Đức ngày trước, khi vua Dực Tông hãy còn, thường hay đi lại với người Pháp, bởi vậy viên khâm sứ nghĩ đến tình cũ…” [2].
Do đó, bởi tình thế bắt buộc, hai vị phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và đình thần phải truất phế Dục Đức; truất phế Dục Đức mới có thể đương đầu với Pháp, mới có thể chống Pháp được, mặc dù ai cũng biết rằng việc truất phế sẽ gây ra “tác dụng phụ” là “rối ren” tạm thời. Suy xét thận trọng, kĩ lưỡng hơn, chúng ta thấy, từ lâu, lúc còn là hoàng tử, Dục Đức đã bị Pháp mua chuộc; sự mua chuộc từ trước này cộng với việc diễn ra trước mắt mà ĐNTL.CB. IV ghi chép rõ, là đưa 14 tên “người riêng” (có thêm một giáo sĩ Thiên Chúa giáo) vào cung đình, và “các tờ tâu của các quân thứ các tỉnh tâu lên, có khi để ở trong điện một đêm, vẫn chưa giao ra”, mới là nguyên nhân chính, đẩy Triều đình lâm vào cảnh rối ren).
TXA.


Thấy Triều đình Huế lâm cảnh rối ren, người Pháp cho rằng đó là một cơ hội tốt để có thể tấn công dễ dàng hơn. Thiếu tướng Buê (Bouet) đánh Hà Nội, thiếu tướng Cuốcbê (Courbet) thì đánh cửa Thuận An. Đi cùng Cuốcbê có toàn quyền Hatmăng (Harmand) và cựu khâm sứ Trung kì Sămpô, lên Huế nghị hoà.
Qua những ngày thương thuyết, đến hôm 23 tháng 7 bản hoà ước ra đời, gọi là hòa ước Quý mùi (1883). Phía Pháp thì Hatmăng, Sămpô, còn phía ta thì khâm sai toàn quyền Trần Đình Túc và phó khâm sai Nguyễn Trọng Hiệp [:Hợp – TXA. ct.] kí kết vào hoà ước. Ngoài các khoản tước mất các chủ quyền của ta về ngoại giao, kinh tế, chính trị, [Pháp còn – TXA. ct.] xén bớt đất đai (Bình Thuận sáp nhập vào Nam [kì – ct.], từ đèo Ngang trở ra thì đặt công sứ ở các tỉnh để kiểm soát các công việc của các quan lại Việt Nam), Triều đình Huế chỉ còn lại vỏn vẹn mấy tỉnh ở giữa. Lại còn có khoản minh định rằng: Viên khâm sứ Pháp không những có cả quyền tự do ra vào yết kiến vua Việt Nam mà lại còn có cả quyền sung vào Hội đồng Cơ mật để kiểm soát công việc của vua nữa.
Sămpô ở lại Huế để giữ chức khâm sứ.
Tuy hiệp ước đã kí kết, viên khâm sứ Trung kì đã trở lại, nhưng các quan ta vẫn không chịu thừa nhận cảnh bại vong và cố tình gây ra những nỗi khó khăn nên Sămpô trong lúc tổ chức thương mại, thương chính, thuế khóa đã vấp phải nhiều trở lực.
Và các quan trong triều, phe thân thiện với Pháp thì ít còn phe chống lại thì mỗi ngày mỗi gia tăng. Hai viên đại thần thế lực vẫn là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết. Hai ông này đã từng ra lệnh bắt giam mấy người Pháp phạm tội ở Thuận An, lại ngầm phái Hầu Chuyên và phò mã Đặng Huy Cát tuyển mộ binh sĩ, xây thành đắp lũy ở Tân Sở (Quảng Trị), phòng khi thất trận thì dời kinh đô ra ngoài ấy [TXA. iđ.].
Lúc được chọn lên kế vị vua Dục Đức, Lãng quốc công đã từng tỏ thái độ e dè, sợ sệt, khóc lóc từ chối ngai vàng. Vì vua cũng biết trước tình thế nguy nan, ở vào cái thế trên đe dưới búa, một bên thì người Pháp mỗi lúc một kiếm cách lấn quyền, một bên thì hai vị đại thần Tường, Thuyết giữ hết quyền bính, còn vua không có lấy một chút hậu thuẫn. Nhưng sau khi lên ngôi, vua Hiệp Hoà muốn cầu an để hưởng phú qúy, thừa nhận cuộc bảo hộ của Pháp, lại tìm cách thoát khỏi áp lực của Tường, Thuyết bằng cách dựa vào sức mạnh của Pháp. Vua đã cho yết bản chiêu an do Toà Khâm sứ gửi sang, lại còn viết mật thư, giao cho Hường Kỷ, con Tuy Lý vương đưa qua cho Sămpô để cầu viện [TXA. iđ.]. Bức thư lọt vào tay Nguyễn Văn Tường, Hường Kỷ bị giam chết trong ngục. Cả gia đình Tuy Lý vương phải tội lưu đày.
Tối hôm hạ ngục Hường Kỷ (28.11.1883), vua Hiệp Hòa cũng bị tố cáo là phạm phí công quỹ quốc gia, giam lỏng trong cung, đưa ra phủ Dục Đức, ép uống thuốc độc chết.

Người biên soạn ghi chú thêm vào giữa bài viết của GS. Bửu Kế: “… Hồng Dật, em út của vua Tự Dức, được chọn để tôn lên ngôi nhưng rồi cũng bị phế vì tội thông đồng với người Pháp và tìm cách mưu hại hai vị phụ chánh [TXA. iđ.]…”.

(Mạn phép trích nguyên văn của chính GS. Bửu Kế [3], để chèn vào giữa bài tuỳ bút – khảo luận này, cũng của chính học giả Bửu Kế. TXA.).


Sau khi vua Hiệp Hoà mất, Kiến Phúc lên nối ngôi, lúc ấy mới 15 tuổi.
Sămpô sợ Toà Khâm sứ có thể bất thình lình bị tấn công, nên yêu cầu Lêja (Léjard), viên quan chỉ huy đồn Thuận An, gởi thêm 50 binh sĩ. Như thế Sămpô có cả thảy 150 quân và một chiếc pháo hạm đậu trên sông Hương. Lêja lại gửi thêm cho Sămpô 100 lính trích trong số 550 lính hiện đóng ở Thuận An.
Mặc dầu hiệp ước đã kí kết, các quan ta ở Bắc có người chịu giải giáp nhưng cũng có lắm người không tuân lệnh Triều đình, có người từ quan rồi lại đứng ra mộ lính để chống với giặc Pháp.
Các quan ta thâu thuế của dân dùng để nuôi quân Cờ Đen và luôn luôn xúi giục dân chúng nổi dậy. Vì thế nên nhiều viên quan bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Tinh thần kháng chiến của toàn dân bùng nổ, mặc dầu lực lượng yếu ớt. Thỉnh thoảng ta lại kéo lính đến tập kích các đồn binh Pháp. Quân Cờ Đen đến nhục mạ, khiêu khích. Quân Pháp vì chưa nhận thêm quân tiếp viện nên vẫn ở lì trong đồn, không dám ra đánh. Thế rồi ta lọt vào thành phố Hải Dương, thiêu hủy nhà cửa, chợ búa. Quân Pháp tổn thất nặng ở Bắc Ninh.
Những tin tức ấy làm Triều đình Huế phấn khởi nên đã yêu cầu Pháp rút khỏi Thuận An [TXA. iđ.].
Sămpô trả đũa bằng cách không thừa nhận vua Kiến Phúc [TXA. iđ.], cắt đứt mọi liên lạc với Triều đình Việt Nam, cố thủ trong Toà Khâm sứ để chờ viện binh. Tômxông phái một chiếc tàu từ Sài Gòn ra Huế để hộ vệ cho Râyna; Cuốcbê lại cho thêm viên khâm sứ Pháp hai chiếc tàu hạng nhẹ và 200 binh sĩ.
Tuy đã có quân tiếp viện, nhưng Sămpô vẫn nằm trong tình trạng nguy ngập, vì bên ta đang ráo riết chuẩn bị chiến tranh.
Tình hình đang căng thẳng thì ở Bắc kì Pháp nhận được quân tiếp viện, đánh chiếm được tỉnh Sơn Tây sau 3 hôm giao phong (14, 15, 16 tháng 12 năm 1883) và Hoàng Tá Viêm bị thất trận. Các quan ta tạm tỏ thái độ hoà hoãn với Pháp vì biết chưa tiện gây hấn.
Giữa lúc ấy Sămpô xin từ chức. Tricu (Tricou) lúc bấy giờ đang ở Sài Gòn, được cử ra thay thế và đến Huế vào hôm 28-12-1883.
Ban đầu Tricu không được phép vào Nội yết kiến vua Kiến Phúc. Nhưng sau đó hai bên đã dàn xếp và Tricu lại được tiếp kiến trong một buổi thiết triều long trọng.

@

Ở miền Trung vì là nơi đóng đô của Triều đình Huế nên Pháp còn kiêng nể, nhưng ở Bắc, mặc dầu có lực lượng hùng hậu của quân Cờ Đen, Pháp vẫn muốn áp dụng chính sách tàm thực, một khi có đủ binh lực thì hết đánh tỉnh này đến đánh tỉnh khác, cố chiếm trọn cả lãnh thổ Bắc kì.
Biết rõ dã tâm của Pháp, nên ta lo đào hầm đắp luỹ, đặt chướng ngại vật ở sông Hương, mở các con đường lên núi và nhất là chỉnh đốn lại Tân Sở, phòng một khi Pháp tấn công và giữ không nổi kinh đô Huế thì Triều đình sẽ chạy ra nương náu ở đó.
Lúc bấy giờ tuy các tỉnh ở Trung châu Bắc Việt như Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang đều thuộc vào tay người Pháp, nhưng các tỉnh ở vùng biên giới như Lạng Sơn, Cao Bằng, Lao Kay quân Tàu còn chiếm đóng, không chịu thừa nhận cuộc bảo hộ của Pháp ở Việt Nam.
Mối chỉ rối ấy, Pháp cần gỡ, thì một cơ hội tốt đẹp đã đưa đến. Nguyên Phuốcniê (Fournier), trung tá hải quân Pháp, có quen thân với Lý Hồng Chương, tổng đốc Trực lệ. Năm 1878, Phuốcniê đã từng ở Trung Quốc, lúc ấy Lý có mua mấy pháo hạm của Anh, và Phuốcniê chỉ cho Lý thấy những chỗ hư hỏng của những chiếc pháo hạm, nên Lý có thiện cảm với Phuốcniê và định đề nghị cho viên sĩ quan này trông coi một hạm đội của thủy quân Trung Quốc. Nhân mối tình thân hữu ấy, Phuốcniê gởi thư cho Lý Hồng Chương để dàn xếp xích mích giữa Pháp và Trung Hoa ở Bắc Việt. Lý Hồng Chương là người trước kia đã thúc giục Chính phủ Bắc Kinh xen vào chính tình Việt Nam và định thi hành chương trình chia đôi Bắc Việt với Pháp [TXA. in nghiêng (:ing.) & iđ.]. Nhưng nay nhận thấy binh lực của Pháp mạnh, có thể gây tổn thất trên lục địa Trung Hoa nên nhận lời gặp gỡ Phuốcniê để nghị hòa. Đây là một cuộc thương thuyết tay đôi, không có viên sứ thần Pháp ở Trung Hoa tham dự vì viên này đã bị nhà cầm quyền Trung Hoa tẩy chay từ lâu.
Trung tá Phuốcniê đến Thiên Tân ngày 05.5 năm 1884 như một nhà du lịch. Ông ta đưa ra cho Lý một dạng bản hiệp ước và được viên tổng đốc Trung Hoa vui lòng chấp nhận.
Phuốcniê đánh điện để hỏi ý kiến, Pháp bằng lòng cho Phuốcniê toàn quyền thương thuyết.
Qua đến ngày 11.5.1884, hiệp ước Phuốniê – Lý Hồng Chương được kí kết tại nha môn của Lý, và gồm có 5 khoản. Tựu trung có hai khoản quan trọng hơn cả:

1. Rút hết quân đội Trung Hoa ở Bắc Việt về.
2. Tôn trọng trong hiện tại cũng như tương lai những hiệp ước kí kết giữa Pháp và Triều đình Huế.

Hòa ước kí kết xong, trung tá Phuốcniê điện cho tướng Milô (Millot) ở Bắc kì biết về việc quân Trung Quốc sẽ phải kéo về nước.
Cho rằng tình thế có thể tạm yên, và thể theo lời yêu cầu của Chánh phủ Việt Nam, Chánh phủ Pháp định sửa lại tờ hòa ước Hátmăng kí kết ngày 23.7 năm Quý mùi (1883).
Trên con đường sang Bắc Kinh, viên tân đại sứ Pháp Patơnốt (Patenôtre) đã nhận được điện tín của Chánh phủ Pháp sai ông đến Huế để đảm nhận công việc ấy.
Tờ hòa ước này kí kết tại Tòa Khâm sứ vào ngày 13 tháng 5 năm Giáp thân (06.6.1884) giữa Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Phan và Patơnốt. Khác hiệp ước trước ở chỗ trả lại Bình Thuận và 3 tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá cho Trung kì. Nhưng khoản 5 lại nói đến việc viên khâm sứ Trung kì ngoài việc được phép yết kiến vua Việt Nam lại còn được phép cùng với các binh sĩ tháp tùng đóng ở Mang Cá trong Thành Nội.
Trong lúc bàn bạc để kí kết hiệp ước, có một vấn đề mà Pháp muốn giải quyết một cách dứt khoát: Đó là cái ấn mà vua nhà Thanh giao cho vua Gia Long trong lễ tuyên phong.
Theo hòa ước Phuốcniê – Lý Hồng Chương [TXA. iđ.], cái ấn ấy không có lí do gì tồn tại nữa, Pháp yêu cầu Triều đình ta gởi ấn ấy về Pháp đề làm vật kỉ niệm.
Bên ta quan phụ chánh Nguyễn Văn Tường nhất định không chịu [TXA. iđ.]. Sau cùng đi đến sự thỏa thuận là cái ấn ấy phải nấu cho chảy ra trước khi hai bên kí kết hiệp ước. Đến giờ đã ấn định, Nguyễn Văn Tường và các quan Thương bạc đem ấn sang Tòa Khâm sứ, đặt lên cái bàn, trước mặt Patơnốt. Giữa phòng người ta đã bảo thợ đem lò bễ đến chực sẵn. Patơnốt lại một lần nữa khẩn khoản xin cái ấn ấy để gởi về Pháp, và các quan ta lại một lần nữa cương quyết từ chối.
Ấn nặng 6 kilô bằng bạc mạ vàng, có khắc mấy chữ “Việt Nam quốc vương chi ấn” lần lần chảy ra đóng lại thành một khối. Chiều hôm ấy thì hai bên kí bản hiệp ước. Râyna đến Huế với Patơnốt đã lưu lại đất kinh kì để nhận lãnh chức khâm sứ.

@

Tại Huế, chiếu theo khoản 5 của hoà ước Patơnôt, viên khâm sứ Râyna đem quân vào đóng ở Mang Cá, nhưng bị Triều đình Huế cản trở không cho vào Thành Nội.
Ngày 10.6 năm Giáp tuất (1884), vua Kiến Phúc lâm bệnh mất, làm vua được hơn 7 tháng.
Từ trước đến nay, cái chết của vua Kiến Phúc đã nêu lên một nghi án, mặc dầu trong sử chép rằng Kiến Phúc chết vì bệnh.
Có thuyết cho rằng vua bị Nguyễn Văn Tường giết, lấy lẽ bịnh tình Kiến Phúc không lấy gì làm nặng, lại chết một cách đột ngột, nên có thể là Nguyễn Văn Tường đã bỏ thuốc độc vào thang thuốc của vua.
Nhưng vì sao Nguyễn Văn Tường lại ám hại vua Kiến Phúc? Sau đây cũng lại là những giả thuyết:

1. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đồng ý giết vua Kiến Phúc, tôn một vị vua nhỏ tuổi hơn để dễ việc nắm trọn quyền bính.
2. Hai vị quyền thần cho rằng hiệp ước Patơnốt, các quan ta đã nhân danh vua Kiến Phúc để kí kết với Pháp, nếu vua Kiến Phúc không còn nữa thì hiệp ước sẽ mất hết hiệu lực.
3. Ban đêm, Nguyễn Văn Tường tự tiện vào trong cung nên bị vua Kiến Phúc la quở. Vua đã nói với Tường một câu: “Thầy đừng tưởng gươm nhà Nguyễn không sắc”.

Sau khi vua Kiến Phúc thăng hà, hoàng thân, đình thần tôn Ưng Lịch lên ngôi, lấy hiệu là Hàm Nghi [TXA. ing.], lúc ấy mới 12 tuổi.
Tôn vương tức vị là một việc hết sức trọng đại, thế mà viên khâm sứ Trung kì không được tham khảo ý kiến. Râyna lấy làm tức tối nên phản đối kịch liệt và không công nhận vua mới.
Quan phụ chánh Nguyễn Văn Tường [TXA. iđ.] bảo cho viên khâm sứ Pháp biết rằng hiệp ước Việt – Pháp không bao giờ đề cập đến việc lập vua cần phải có sự thoả thuận của Chính phủ Pháp [TXA. ing.]. Nước không thể một ngày không vua, nên phải tôn hoàng tử Ưng Lịch.
Râyna đề nghị tôn Gia Hưng vương, nhưng hai phụ chánh không thuận [TXA. iđ.], lấy cớ vua Kiến Phúc trước khi mất có di chiếu chỉ định Ưng Lịch. Viên khâm sứ vẫn một mực phản đối việc tấn tôn này, cho rằng vua Kiến Phúc chưa đến tuổi trưởng thành, di chiếu ấy không có giá trị.
Tuy thế, Râyna cũng không biết quyết định thế nào cho phải lẽ nên gửi điện văn xin chỉ thị ở Pháp.

Người biên soạn ghi chú thêm vào giữa bài viết của GS. Bửu Kế: Theo cách triển khai các ý tưởng, giả thuyết, sự việc ở đoạn văn viết về cái chết của Kiến Phúc và về âm mưu, quyết tâm tôn lập Gia Hưng vương Hồng Hưu của Râyna (Rheinart), GS. học giả Bửu Kế đã mặc nhiên cho chúng ta thấy cái lô gich (logic, logique) của chuỗi sự kiện. Lô gich này đúng với ĐNTL.CB. V [đệ ngũ kỉ] [4], tr. 150 – 151, tr. 176 – 178, (xin xem 2 trích đoạn ở phần phụ lục tư liệu chuẩn cứ). Chúng tôi đã hơn một lần khẳng định rõ bằng ngôn từ minh xác: Hồng Hưu ám sát Kiến Phúc theo ý đồ của thực dân Pháp. Tuy nhiên, rõ ràng ĐNTL.CB. V đã khẳng định Kiến Phúc chết vì bệnh tái phát (bệnh mới sắp khỏi lại tái phát thường là rất nguy kịch, dễ dẫn đến tử vong). Thế thì chúng ta căn cứ vào tư liệu giám định thực nghiệm nào để khăng khăng kết luận?!? Do đó, chúng tôi chỉ có thể nhất trí với 1 trong 2 điều sau:
1. Kiến Phúc chết vì bệnh tái phát rất nguy kịch, đúng như ĐNTL.CB. V đã ghi chép.
2. Kiến Phúc bị đầu độc bởi Hồng Hưu, (Hồng Hưu là kẻ đáng ngờ nhất, theo lô gich của chuỗi sự kiện trong ĐNTL.CB V [đệ ngũ kỉ], và theo lô gích nói trên của GS. Bửu Kế), do một loại chất độc mà các quan ngự y của Thái y viện không thể giám định y khoa được. Cần lưu ý thêm: đầu độc nhà vua là một việc không đơn giản (thăm bệnh, bắt mạch, bốc thuốc, sắc thuốc, nâng chén cho vua uống thuốc, ngay cả việc cơm ăn, nước uống, nơi ở, giường nằm của vua, đều có cơ chế giám sát với người chuyên môn giám sát từng li từng tí).
Hơn nữa, cái gọi là giả thuyết thì vô cùng, ai đơm đặt gì chả được! Theo phương pháp khoa học, cái gọi là giả thuyết đòi hỏi phải được chứng minh, và phải chứng minh bằng các dữ liệu cụ thể, đã được giám định thực nghiệm (tang chứng, vật chứng, nhân chứng). Viết sử, nghiên cứu sử, hoặc sáng tác tiểu thuyết, tùy bút lịch sử, làm sao dám chép lại, đưa ra những giả thuyết không một chút bằng cớ, thậm chí có giả thuyết ngây ngô như vậy! Nếu đã đưa ra giả thuyết thì phải chứng minh ngay, tiếp theo ngay vào đoạn văn chép lại giả thuyết ấy, bằng không là đã can tội hình sự, cho dù vô tình hay hữu ý: tội gieo nghi án cho người khác. Kẻ thù chẳng mong gì hơn là lợi dụng được tật cả tin, khía cạnh tâm lí trong một xã hội có mâu thuẫn giai cấp mặc dù thống nhất ý chí chống ngoại xâm và thói đời “tiếng lành đồn gần” nhưng “tiếng dữ đồn xa”, để gieo được nghi án về người chúng căm hận! Đó là chưa kể đến thủ đoạn “câu khách” của các cây bút thuộc loại “ngồi lê đôi mách” với các chuyện thâm cung bí sử, thời nào cũng bị thêu dệt. Chúng tôi xin phép được nhấn mạnh: Bất kì thời nào người đời cũng háo hức, thèm khát trong việc thêu dệt, nghe ngóng, hóng hớt, đồn đãi các loại bí sử. Và kẻ thù đã lợi dụng triệt để loại tâm địa thuộc dạng thói đời rất phi chính trị, rất thế sự này.
Chúng tôi xin được mạn phép học giả Bửu Kế để “đọc và bình chú” tác phẩm tuỳ bút – khảo luận lịch sử này của ông, bởi lẽ, bài viết thiếu những cước chú cụ thể cần thiết để tiện tra cứu, và nhất là để bảo chứng cho các chi tiết lịch sử được ghi lại, hoặc được phân tích, bình luận. Vâng, xin mạn phép gọi là “tuỳ bút – khảo luận lịch sử”, mặc dù GS. là chuyên gia về chữ Hán, dịch giả Pháp văn, với bảng liệt kê sách báo tham khảo thật có sức nặng [5]*.


Chánh phủ Pháp không muốn sinh chuyện lôi thôi, nên đánh điện văn phúc đáp, ra lệnh cho tướng Milô đưa ngay một trung đoàn đến Huế, vào kinh thành tấn phong vua Hàm Nghi.
Đại tá Gheriê (Guerrier), tham mưu trưởng của Milô, nhận lãnh sứ mệnh này, đem theo 600 binh sĩ và 2 pháo đội.
Lúc Gheriê đến nơi thì cửa thành đóng kín, không vào được. Nhưng bên trong không có vẻ chuẩn bị để kháng cự.
Quan phụ chánh Nguyễn Văn Tường [TXA. iđ.] không chịu bảo quân lính mở cửa, thoái thác rằng bản hiệp ước Việt – Pháp cần thương thuyết lại và quân Pháp không có quyền vào đóng trong hoàng thành.
Đại tá Gheriê đáp lại: Hiệp ước Patơnôt bao giờ cũng có hiệu lực, và hẹn trong 12 tiếng đồng hồ nếu bên ta không nhượng bộ thì bắn đại bác vào Đại nội.
Ngày 15.8.1884, vào lúc 03 giờ chiều, sắp hết hạn đã ấn định trong tối hậu thư, Nguyễn Văn Tường và mấy quan Cơ mật thân hành qua Tòa Khâm sứ báo cho Râyna và tướng Gheriê biết là Chánh phủ ta thuận theo các điều khoản trong hiệp ước và xin phép lập vua Hàm Nghi.
Bản xin phép viết bằng chữ Nôm, Râyna không thuận, buộc phải dùng chữ Hán. Trong câu chuyện, viên khâm sứ có ý dọa ngầm rằng: Ông ta có thể đưa hai quan phụ chánh Nam triều ra trước toà án quân sự về những hành động bất thân thiện và trái hiệp ước.
Đại tá Gheriê muốn hòa giải, nên ôn tồn bảo với các quan ta là ngày hôm sau, ông sẽ sang tấn phong vua Hàm Nghi.
Thấy bên ta nhượng bộ, Gheriê chờ cho Nguyễn Văn Tường đi rồi, liền đem quân về Mang Cá, kéo cờ Pháp lên, đóng quân để chận nơi hiểm yếu của quân ta.
Chúng ta không khỏi ngạc nhiên, khi thấy Nhà Cầm quyền Pháp cũng như viên khâm sứ ép buộc vua Việt Nam phải nhận lễ tấn phong của người Pháp, một điều mà trong hiệp ước không bao giờ nói đến. Khoản 5 của hiệp ước ngày 06.6.1884 chỉ nói rằng: “Viên khâm sứ đại diện Chánh phủ Pháp, chủ tọa các liên lạc ngoại giao điều hành công cuộc bảo hộ nhưng không can thiệp vào nội trị tại các tỉnh đã ấn định ở khoản 3 (tức là các tỉnh từ biên giới Nam Việt [lục tỉnh Nam kì – TXA. ct.] đến địa giới tỉnh Ninh Bình). Viên khâm sứ sẽ ở trong kinh thành Huế cùng với các đoàn tuỳ tùng quân sự, có quyền lấy tư cách riêng để yết kiến vua Việt Nam”.
Với đầu óc thực dân, người Pháp chỉ [nghĩ – TXA. ct.] rằng trước kia, thần phục Trung Hoa, vua Việt Nam phải thọ phong [bởi – TXA. ct.] vua Trung Hoa, nay chịu bảo hộ của Pháp, thì phải nhận lễ tuyên phong của Pháp. Có như thế họ mới xen vào nội tình của Việt Nam được.
Ngày 17.8.1884, vào lúc 09 giờ sáng, đại tá Gheriê, khâm sứ Râyna, thuyền trưởng chiếc tàu Tát (Tarn) đem 25 sĩ quan và 160 binh sĩ vào Đại nội để làm lễ tấn phong. Gheriê, Râyna và viên thuyền trưởng đi cửa giữa, không mang theo vũ khí, 60 binh lính và sĩ quan đi cửa hai bên, còn những kẻ khác đứng chực ở ngoài. Vào đến điện Thái Hoà, Gheriê đăït lên cái bàn trước ngai vàng huy chương bắc đẩu bội tinh.
Lễ xong, khi đoàn người ra về, đến Ngọ môn thì cửa giữa đã đóng lại, phải đi cửa hai bên để ra ngoài.
Như trên đã thấy, theo hiệp ước Patơnôt thì viên khâm sứ Trung kì được coi như là quan thượng thơ Ngoại giao của Việt Nam. Do đó, đường lối ngoại giao ở Trung cũng như ở Bắc đều lệ thuộc viên khâm sứ Trung kì. Milô, trông coi Bắc kì, lúc bấy giờ là một viên trung tướng, còn Râyna thì chỉ mới đại úy. Một viên đại úy không thể nào lại giữ một chức vụ có thể điều khiển một viên trung tướng được, vì thế nên Chánh phủ Pháp triệu viên quan võ Râyna về và bổ sung một viên quan văn thay thế.
Một điện văn gửi từ Pháp hôm 30.8.1884 cử Lơme (Lemaire), tổng lãnh sự Thượng Hải, giữ chức khâm sứ Trung kì, và yêu cầu đến nhiệm sở gấp.
Lơme nhận được chỉ thị bảo phải có thái độ ôn hoà với Triều đình Huế nhưng cũng đừng để bị lấn áp.
Lơme đến Huế ngày 10.10.1884 với trọng trách tổ chức nền cai trị ở Bắc Việt và điều hành công cuộc bảo hộ ở Trung Việt. Nhưng chỉ trông nom về phương diện hành chánh mà thôi, còn quân sự thì vẫn thuộc các sĩ quan Pháp.
Không chịu thừa nhận chế độ bảo hộ vừa kí kết, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, bên ngoài giả vờ tử tế, nhưng lại cho đặt súng chung quanh hoàng thành và khu kinh thành [TXA. ing. & iđ.]. Đại tá Pécnô (Pernot) lại báo cáo chuyện đó với tướng Brie đờ Lislơ (Brière de L’Isle). Các võ quan Pháp mới bàn bạc với nhau tổ chức những cuộc tập trận và cả ngày lẫn đêm kéo quân đi chung quanh thành để diễu võ giương oai.
Triều đình Huế phản kháng với viên khâm sứ, cho rằng những cuộc diễu hành và tập trận ấy đã làm náo động nhân tâm ở kinh đô Huế [TXA. ing.].
Sau cùng hai bên thoả thuận: quân đội Pháp dẹp hẳn cái lối khiêu khích hăm doạ ấy, còn bên ta thì cất hết những khẩu súng, nhất là những khẩu đang há họng chĩa sang Toà Khâm sứ.
Tuy đại bác đã triệt hạ, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết [TXA. iđ.] vẫn cho vận tải súng ống, lương thực ra Tân Sở [TXA. ing.], gửi mật thư [TXA. iđ.] cho các quan ở Bắc Hà yêu cầu thu thuế, thu thóc về kinh đô để phòng ngự chiến tranh.
Ta lại gửi mua ở Hương Cảng 6.000 thước xích sắt hạng lớn, với mục đích giăng ngang ở các cửa bể, cửa sông, khiến những lúc có chiến tranh, tàu Pháp không tiến vào kinh kì được. Cuối tháng 3, lúc hàng về, một chiếc tàu cắm cờ Đức bị pháo hạm của Pháp chận bắt, cho rằng những dây xích ấy có mục đích quân sự.
Các quan Thương bạc phản đối kịch liệt, lấy cớ rằng các đội long thuyền và hai tuần dương hạm cỡ nhỏ của Việt Nam rất cần đến những sợi dây xích ấy. Viên khâm sứ bằng lòng kí giấy cho nhập nội.
Lơme là một người có kinh nghiệm về đường ngoại giao. Trong những cuộc tranh chấp giữa ta và người Pháp, Lơme đã xử trí một cách khôn khéo.
Một sĩ quan Pháp bị một người trong hoàng tộc chế nhạo. Y nổi cáu đánh một bạt tai. Viên khâm sứ đã trừng phạt sĩ quan đó để lấy lòng người Việt.
Nhưng đến việc thứ hai thì Lơme vấp phải sự chống đối của bọn Pháp ương ngạnh.
Mấy người thủy thủ của chiếc tàu Lion (Lionne) đậu tại cửa Thuận An bị mất cắp, viên võ quan chỉ huy chiếc tàu ấy là Hennít (Hennique) vào trong làng lùng bắt viên lí trưởng rồi dùng roi để đánh.
Chánh phủ ta phản kháng với viên khâm sứ, Lơme gửi giấy khiển trách Hennít. Viên sĩ quan này không nhận lỗi, đưa việc ấy ra Hà Nội. Tướng Brie ở Hà Nội bênh vực Hennít, thế rồi không bên nào nhượng bộ bên nào. Cuối cùng viên thượng thư hải quân Pháp phải đứng ra can thiệp, nhưng lại can thiệp một cách rất thực dân. Hennít nguyên chức đại úy hải quân được thăng lên hàm trung tá.
Thấy rõ sự chống đối giữa các nhà cai trị và quân sự Pháp ở Việt Nam, Triều đình Huế mới thảo một giác thư nhờ Lơme gởi thẳng cho Chánh phủ Pháp, gồm mấy khoản, đại khái:

1. Hiệp ước Patơnốt chưa được phê chuẩn mà 2.000 hay 3.000 lính Pháp đã chiếm đóng Mang Cá. Khoản 5 của hiệp ước này cần phải sửa đổi, nghĩa là đồn binh của viên khâm sứ phải đóng ở ngoài thành [TXA. ing. & iđ.] để khỏi phạm đến uy quyền của vương triều và cũng để khỏi làm cho dân chúng sợ hãi.
2. Nhiều viên công sứ ở Bắc kì đã xử tử, xử phạt trượng, phạt xuy (đánh bằng gậy và roi), phạt tiền các quan tỉnh hoặc phủ, huyện [TXA. ing. & iđ.].
3. Các tàu Pháp kiểm soát quá chặt chẽ các ghe thuyền của Việt Nam. Tại các tỉnh, việc giữ ghe thuyền quá lâu làm hại cho nền thương mại.
4. Vì dùng cường quyền để áp bức [TXA. iđ.], Triều đình Huế phải huỷ ấn phong vương của vua Trung Quốc. Bạc của cái ấn ấy trị giá 240 đồng Mễ Tây Cơ. Lẽ ra phải gởi trả lại cho Bắùc Kinh, chứ không nên đem phân chia cho các sĩ quan tham dự trong buổi lễ hôm ấy.
5. Viện Cơ mật đòi các thứ thuế nha phiến, thuế mỏ và các thứ thuế khác. [Về thuế nha phiến, đây là chi tiết lịch sử – cụ thể, hậu quả của thủ đoạn ngược ngạo bóc lột “chiến phí” của thực dân Pháp hồi 1862…; là thứ thuế một đi không trở lại! – TXA. ct.]

Khoản 2 trong bức giác thư đã tố cáo những hành vi tàn nhẫn của các viên công sứ Bắc kì hồi đó. Chính Râyna cũng đã xác nhận là việc có thật. Nhiều quan phủ, huyện bị bắt cóc hay bị giết. Hà Văn Quan, tổng đốc Hải Dương, bị đày ra Côn Đảo vì tội chống Pháp.
Các sĩ quan Pháp rất tức tối khi thấy kẻ đại diện cho nước Pháp tại Huế cũng đồng ý với ta điểm đó.
Trong khi ấy, Nguyễn Văn Tường gởi thông tư cho các quan ngoài Bắc, ngăn cấm không cho giúp đỡ người Pháp trong việc mộ lính và phu khuân vác, vì cho rằng Brie đờ Lislơ tuyển lính pháo thủ 2 đại đội là trái với hiệp ước [TXA. iđ.].
Những sự chống đối của hai quan phụ chánh, nhất là Tôn Thất Thuyết, đã làm cho Chính phủ Pháp bất bình. Phơrâyxinê (Freycinet), bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp, gởi giấy cho khâm sứ tại Huế yêu cầu tìm cách trừng phạt Tôn Thất Thuyết, không cho ở địa vị ấy nữa và bắt đày đi một nơi khác.
Cũng như Philát, Lơme không được thượng cấp tin cậy, vì tỏ ra ôn hoà với Triều đình Việt, lại không hết lòng bảo vệ chế độ thuộc địa, không tìm cách lấn áp quyền hành của dân bị trị. Vì thế nên ngày 12.4, thượng thư Bộ Binh Pháp bổ nhậm Ruxen đờ Cuốcxy (Roussel de Courcy) sang Việt Nam với những quyền hành hết sức rộng rãi. Các viên khâm sứ ở Huế và ở Bắc đều thuộc dưới quyền điều khiển của viên tướng này.
Trong cuộc tranh chấp giữa quân sự và hành chánh, ta thấy quân sự đã thắng thế. Nam kì bị tách rời và coi như là thuộc địa của Pháp, ta chỉ còn lại Trung và Bắc. Trước kia, Lơme, một viên chức hành chánh đại diện cho Pháp để giao thiệp với Triều đình Huế, quyền hành lớn hơn các khâm sứ và các quan binh ở Bắc. Nay Pháp lại đưa sang một tướng lãnh mà Lơme có bổn phận phải phục tùng. Như thế viên khâm sứ Huế, không còn là vị đại diện của Chánh phủ Pháp nữa, mà chỉ đại diện cho tướng Cuốcxy mà thôi.
Tướng Cuốcxy chủ trương bình định Bắc kì trước, kiếm cách ngăn cản để Triều đình Huế không thể nào thúc giục dân chúng Bắc Việt nổi lên được nữa, rồi uy hiếp Trung Việt sau.
Tướng Cuốcxy đến Bắc kì vào hôm 31.5.1885, liền cho chiếc tàu Pluyviê (Pluvier) vào Huế đón Lơme ra hỏi công việc.
Lơme bất bình về việc Chánh phủ Pháp đặt tướng Cuốcxy làm thống đốc quân vụ kiêm tổng thống toàn quyền, khiến ông mất hết quyền bính, nên sau khi gặp tuớng Cuốcxy ở Hà Nội và trình bày công việc xong, ông liền bàn giao, xin từ chức và không trở lại Huế nữa.
Sămpô được cử giữ chức khâm sứ, đại diện cho Cuốcxy ở Huế.
Tướng Cuốcxy được chính phủ Pháp giao phó quyền hành hết sức rộng rãi. Ngoài việc thống lĩnh tất cả binh quyền ở Trung và Bắc, ông còn nắm cả quyền chính trị của cả 2 xứ.
Chính sách của Pháp bấy giờ là sau khi chiếm Nam kì liền lần ra Bắùc, và bình định Bắc xong sẽ uy hiếp Trung kì. Nơi đây có vua, có Triều đình và một binh lực tương đối hùng hậu hơn các miền khác. Nhưng sau khi sang Đông Dương, được báo cáo rõ về hai viên phụ chánh Tường và Thuyết đang chuẩn bị để tấn công Pháp [TXA. iđ.], tướng Cuốcxy định đánh mạnh một đòn vào Huế để làm tan rã chánh quyền của Việt Nam rồi dần dà dùng võ lực để bình định Bắc kì sau.
Ngày 26.6.1885, từ Hà Nội tướng Cuốcxy gởi điện văn về cho Thượng thư bộ binh Pháp: “Tôi mang trong lòng những nỗi căm hờn đối với các vị phụ chánh. Tôi sẽ hành động thận trọng nhưng cương quyết. Đánh điện về Huế cho biết, nêu Bộ chống lại việc dùng võ lực” [TXA. ing. & iđ.].
Không ngờ Bộ Chiến tranh không chấp thuận việc gây chiến với Triều đình Huế. Tuy vậy, tướng Cuốcxy vẫn quyết hành động theo ý của mình bằng cách tạo ra cơ hội để đưa đến việc dùng bạo lực [TXA. ing.].
Tướng Cuốcxy ban bố lệnh giới nghiêm, đem ra Huế 800 lính Ả Rập do tiểu đoàn trưởng Métdingê (Metzinger) chỉ huy và 154 khinh binh.
Sămpô báo tin cho Triều đình Huế biết để chuẩn bị việc nghinh tiếp. Cuốcxy muốn đến Huế một cách oai vệ để mọi người thấy rõ uy quyền của mình và cũng để hăm doạ hai quan phụ chánh [TXA. iđ.].
Ngày 19-5 năm Ất Dậu (1-7-1885), tướng Cuốcxy đến Thuận An. Bên phía người Pháp có Sămpô và mấy viên văn võ quan, bên ta hai vị đại thần đi đón và có quân lính dàn hầu.
Các cửa thành đều treo cờ và khi tàu cập bến ta bắn 19 phát súng để chào mừng.
Về đến Tòa Khâm, Cuốcxy mật nghị với Sămpô và các tướng lãnh định mưu bắt Tôn Thất Thuyết. Mưu đó rất giản dị, giống kiểu Tôn Quyền mời Quan Vân Trường sang phó hội và chặn bắt. Nhưng cơ mưu ấy bị những người bồi bếp trong Toà Khâm tiết lộ ra ngoài.
Với hành động ngang trái này, tướng Cuốcxy dựa vào ý kiến của Phơrâyxinê, bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp. Phơrâyxinê đã từng gởi điện văn cho viên khâm sứ Huế, khuyến cáo nên trừng phạt Tôn Thất Thuyết, không những bãi chức mà còn đổi đi xa.
Lúc tướng Cuốcxy đến Huế, mang theo binh lực, Triều đình Huế không khỏi lo ngại.
Tôn Thất Thuyết vội đến dinh Nguyễn Văn Tường để bàn bạc.
Tường nói:
“Quan lớn là kim chi ngọc diệp, lẽ tất nhiên là phải hết lòng hết sức tôn phù xã tắc. Còn tôi, mặc dù là kẻ bách tính, nhưng cũng biết vị quốc vong thân. Nhưng quan lớn không nghĩ rằng: Nếu gây việc can qua, biết đâu chúng ta sẽ không thất trận? Gia Định thành trì kiên cố, vẫn không chống nổi đại bác của giặc Tây. Vừa rồi thất thủ Thuận An, nhân tâm xao xuyến, vàng bạc tiêu tan. Nếu đánh nhau, thánh thượng không khỏi kinh tâm, quân lính sợ không hết lòng chiến đấu. Hay là chúng ta thử đem tiền bạc, đất đai mà nhượng cho bọn chúng? Nhưng nếu quan lớn tin chắc rằng quân ta có thể đuổi được giặc, đem lại cảnh thái bình thì tuỳ quan lớn định liệu, tôi không dám bàn đến”.
Nghe Nguyễn Văn Tường đưa ra những luận cứ ấy, tuy đúng với tình trạng hiện thời, nhưng lúc bấy giờ bầu nhiệt huyết của Thuyết đang hăng, lại bị dồn vào thế bí, biết rằng các tướng lãnh cao cấp Pháp hiện đang cố kiếm cách hãm hại mình. Vả lại, [trước – TXA. ct.] chính sách tàm thực tham lam của Pháp, dầu ta có đối xử ôn hoà cũng không sao thành công được. Vì thế Tôn Thất Thuyết đã bất bình đáp lại:
“Ăn cơm vua, phải trả nợ nước, huống chi cầm binh quyền trong tay, nếu để giặc Tây chiếm hãm thành trì thời còn đâu nữa vàng bạc thuế má? Tôi nhất quyết đương đầu với giặc, dẫu sau này ra sao cũng đành. Vì vậy tôi định ra lịnh cho các võ quan và binh sĩ phải chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu”.
Sau cuộc đàm luận, hai quan phụ chánh chia tay, nhưng trong lòng đã bắt đầu thiếu sự đồng tâm nhất trí.
Tướng De Cuốcxy đưa giấy mời các hoàng thân, các quan Cơ mật sang dự tiệc tại Toà Khâm sứ để bàn việc triều yết vua Hàm Nghi cùng đệ trình quốc thơ. Trong số quan khách đến dự, người ta thấy vắng bóng quan đệ nhị phụ chánh.
Vừa nhập tiệc, Cuốcxy liền nâng cốc, cầu chúc hai nước được thịnh vượng, đoạn nói tiếp:
“Nếu qúy quốc muốn được yên ổn thì trong vòng 3 ngày phải nạp chiến phí cho chúng tôi là 20.000 thoi vàng, 200.000 thoi bạc và 200.000 quan tiền. Chúng tôi vui mừng thấy các ngài đến đây đông đủ. Nhưng sao quan phụ chánh Tôn Thất thuyết lại vắng mặt? Hay là quan phụ chánh ở nhà để sửa soạn đánh chúng tôi?”.
Một vị đại thần tìm cách nói đỡ: “Dạ, quan phụ chánh của chúng tôi bị bệnh nên không sang được”.
Cuốcxy lên cao giọng trịch thượng: “Nếu bị bệnh cũng phải võng đến. Thế nào chúng tôi cũng cho người đến nhà để bắt!”.
Các quan nghe nói thảy đều ngao ngán. Còn cuộc bàn bạc việc triều yết vua Hàm Nghi thì không mang đến kết quả nào cả. Cơ mật viện yêu cầu: Lúc vào Đại nội, chỉ có tướng Cuốcxy đi cửa giữa, các quan theo hầu đều đi cửa hai bên, không mang theo vũ khí. Lúc lên điện Thái Hoà, bước vào ngang hàng cột thứ nhì, phải dừng lại, đưa quốc thư cho một viên đại thần dâng lên vua.
Tướng Cuốcxy bác bỏ những lời đề nghị ấy, buộc vua Việt Nam phải tiếp ông ta, nhận quốc thơ xong rồi mới ngồi trên ngai vàng. Còn việc vào cửa Ngọ Môn thì ông nói một cách hống hách: “Không những các quan theo tôi, mà ngay cả quân lính cũng đi cửa giữa”.
Cuộc bàn bạc chưa xong thì tướng Cuốcxy yêu cầu hoãn lại, đợi lúc nào Tôn Thất Thuyết bình phục sẽ hay.
Về phần Nguyễn Văn Tường thì ông đã phản kháng với tướng Cuốc xy là binh sĩ Pháp ăn mặc lôi thôi, hay phá phách, nên yêu cầu cấm chỉ không cho họ vào Thành Nội nữa [TXA. ing.].
Tiệc tan ra về, Nguyễn Văn Tường liền đi ngay đến Bộ Binh, gặp Tôn Thất Thuyết, đem tự sự thuật lại, và nói: “Đến nước này, chúng ta không sao chịu nổi, thôi đành liều may rủi với trời” [TXA. iđ.].
Tôn Thất thuyết cũng giận run lên, bảo với Tường rằng:
“Binh lính của chúng ta đều đã sẵn sàng, chỉ cần hành động gấp để bọn chúng không kịp trở tay. Ngoài Bắc chúng đã chiếm cứ Tuyên Quang, Cao Bằng, Thái Nguyên, nay đến cửa Thuận. Nếu ta bó tay ngồi nhìn giặc Tây hoành hành thì còn gì là cơ nghiệp nữa! Tôi sắp đặt thế này: Mặt tiền quan hệ hơn cả thì đã có lính Long Thuyền, Võ Sinh, đều tinh thông võ nghệ. Trong hoàng thành do lính Cẩm Y và Kim Ngô chống giữ. Bọn mới tuyển cho đóng ở phía sau. Cửa Đông Ba có 5 vệ, đóng dọc về thẳng Trường Định. Tại cửa An Hoà có 5 vệ, cửa Hậu, 5 vệ. Cửa Tả có vệ Hổ Oai, chọn lựa những đứa thiện chiến. Cửa Chính Tây đã có đội Hùng Nhuệ giữ. Trong và ngoài thành đều có voi, mỗi con 2 nài, súng đại bác bố trí khắp nơi. Bên kia sông, phía trước lầu sứ, lính Long Thuyền, Phấn Nghĩa chuẩn bị sẵn, hễ nghe hiệu lệnh là xung phong vào các trại để tàn sát lính Pháp”.
Hai quan phụ chánh mật đàm mọi việc ổn thoả, chỉ chờ cơ hội là thực hiện [TXA. iđ.].

@

Cuộc bang giao Việt – Pháp đi lần đến chỗ sụp đổ. Về phía Việt Nam như ta thấy, chuẩn bị chiến cuộc từ lâu. Triều đình cũng như sĩ phu, dân chúng đều muốn đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Đất nước, nhưng tự liệu lực lượng, thấy khó địch nổi nên phải ẩn nhẫn để chờ thời. Nay như thuốc nổ bị châm ngòi, tức lòng nên phải nổ; Tôn Thất Thuyết lo sợ, chưa biết quân Pháp đến bắt mình lúc nào; nên suốt cả ngày 21 và 22 tháng 5 năm Ất dậu (03 – 04.7.1883), hai quan phụ chánh chuẩn bị công việc hoàn tất [TXA. iđ.]. Muốn tăng gia sức lực chiến đấu, Tôn Thất Thuyết ra lệnh mở rộâng cửa nhà lao, chặt xiềng, tháo gông, tha tội cho các phạm nhân, cho bọn chúng tiền bạc, cơm rượu và dụ bọn chúng cầm khí giới quyết tâm giết giặc.
Công cuộc sửa soạn nằm trong vòng quân cơ bí mật. Tuy thế, giám mục Cátpa vẫn biết được và tin báo cho tướng Cuốcxy hay. Cuốcxy tự phụ ở binh sĩ, ở súng ống của mình nên xem thường, không buồn lưu ý. Vì thế cuộc khởi nghĩa của ta đã gây cho Pháp ít nhiều thiệt hại.
Thái độ khiêu khích của Cuốcxy đã biểu lộ một cách rõ rệt. Các tặng phẩm của vua và đình thần đem qua biếu, Cuốcxy từ chối trả lại.

@

Đêm 22 tháng 5 (04.7), nhân dịp đến Huế, tướng Cuốcxy mở tiệc khoản đãi các văn võ sĩ quan Pháp ở Huế.
Hình như cuộc tấn công Tòa Khâm định vào một giờ sớm hơn, nhưng vì công cuộc sắp đặt chưa hoàn bị nên mãi đến lúc trăng lên, nghĩa là lúc 12 giờ 40 mới bắt đầu khởi sự. Nhưng khẩu đại bác đặt sẵn trên thành chĩa ra cầu Thanh Long và sông Đông Ba, chờ các sĩ quan dự dạ yến trở về sẽ bắn vào họ để tàn sát. Nhưng vì cuộc tấn công bị chậm trễ thành thử các sĩ quan đều trở về đồn bình an vô sự. Tuy thế, về sau, người Pháp vẫn gọi cầu Thanh Long là cầu mưu sát (Pont de L’Attentat).
Quân số của Pháp lúc bấy giờ gồm có:
Tại Mang Cá, hai đại đội bộ binh của người Phi châu, 3 trung đội thuỷ quân lục chiến; tại khu đất nhượng địa trong thành gần Mang Cá: 2 đội lính Phi châu, 1 trung đội thuỷ quân lục chiến và pháo đội; tại Tòa Khâm: 2 đại đội thủy quân lục chiến; phía bắc Mang Cá có 2 pháo hạm Javơlin (Javeline) và Briônvan (Brionval) và một chiếc tàu nhỏ. Tổng cộng cả thảy 31 sĩ quan, 1.387 binh sĩ và 17 cỗ đại bác.
Sau buổi dạ hội náo nhiệt, quang cảnh lần lần trở lại yên tĩnh. 11 giờ 30 ai nấy đều ra về.
Toà Khâm và Mang Cá đang chìm đắm trong giấc ngủ. Bỗng nhiên vang lên tiếng đại bác và tiếng reo hò vang dậy. Những trại lợp tranh của lính ở bị những bó đuốc của quân ta xung phong vào đốt, bốc cháy dữ dội. Hăng hái nhất là lính Phấn Nghĩa, tức là lính của Tôn Thất Thuyết mộ làm tay chân, cùng những phạm nhân ở lao Thừa Thiên và lao Trấn Phủ được thả ra để đái công chuộc tội. Họ mang súng hoặc đại đao, mã tấu, mình trần trùng trục, tóc bỏ xoã xuống ngang gối. Đạo quân đánh vào Tòa Khâm do Tôn Thất Liệt [Lệ – TXA. ct.], em của Thuyết, cùng quan thủy sư đô đốc, thuỷ sư hiệp lí chỉ huy, còn cánh quân đánh vào Mang Cá thì đề đốc Trần Xuân Soạn và Tôn Thất Thuyết tự thân hành đốc suất. Một viên đại bác từ pháo đài ta trên cửa thành bắn sang làm thủng một lỗ lớn trên nóc Tòa Khâm. Tường và mái đều bị xuyên đạn. Nhà kho, nhà vệ sinh sụp đổ và bốc lửa. Đại uý Bruynô (Bruneau), pháo binh hải quân, bị một viên đạn xuyên qua ngực, ngã ra chết, đại uý Bruanh (Brouin) của đội binh châu Phi gãy mất hai ống chân, tử trận. Hai sĩ quan Hétsen (Heitschell) và Lacơroa (Lacroix) bị thương nặng.
Quân Pháp đã bảo vệ được kho khí giới, đạn dược và lương thực. Nhưng quân trang thì bị cháy sạch đến nỗi viên tiểu đoàn trưởng Métdingê suốt cả ngày 5.7, chỉ mặc có một cái quần đùi, mãi đến tối mới kiếm được một cái quần dài, nhưng lại thiếu kéo, phải dùng đến dao để hớt bớt cho vừa.
Do một cái cửa ăn thông qua trại, 160 binh sĩ của Pháp kéo vào Tòa Khâm. Chính tướng Cuốcxy đã điều khiển toán quân này, đăït mỗi cửa sổ 2 người bắn ra để chặn đứng những đợt xung phong của lính Việt.
Một điều may mắn cho Pháp là Nhà Bưu điện cách Toà Khâm vào lối 300 thước không bị hư hại gì cả, nên tướng Cuốcxy cho đánh điện gọi lính ở Hải Phòng cấp tốc vào Huế và gọi lính ở Thuận An kéo lên.
Ban đầu súng đại bác của ta bắn không lấy gì làm trúng đích, nhưng về sau đã tàn phá được nhiều nơi, làm thủng trần, sập vách. Cả Tòa Khâm rộng lớn chỉ còn lại một gian phòng chính là đứng vững.
Tại Mang Cá, sau những phút kinh hoàng đã qua, trung tá Pécnô và thiếu tá Métdingê chia quân phản công đánh chiếm kinh thành. Súng đại bác Pháp chĩa bắn vào các ổ súng của ta. Hai pháo hạm, nhờ có ánh lửa của những túp nhà bị cháy nên đã bắn trúng vào mặt đông bắc của kinh thành. Quân Pháp ở Mang Cá, kéo vào tập trung ở khu đất mà ta đã nhượng cho Pháp từ một năm nay, rồi chia thành 3 toán kéo đi tấn công các ngã, tiến vào Thành Nội. Quân ta kháng cự rất hăng nhưng sau 1 tiếng đồng hồ thì rút lui và tan rã hàng ngũ. Pháp chiếm được 6 cỗ đại bác hạng lớn đặt trên mặt thành rồi dùng lại những khẩu súng này để bắn lại quân ta.
Trời gần sáng, chiến cuộc vẫn tiếp diễn dữ dội nhưng quân ta thế yếu cứ lùi dần. Pháp đốt hai bộ, Lại và Binh, là chỗ ở của Tường và Thuyết [TXA. iđ.] và các công thự, các trại lính. Gặp dân chúng chạy loạn, không phân biệt già trẻ trai gái, [Pháp – TXA. ct.] đều tàn sát một cách rùng rợn, tiếng la khóc vang trời dậy đất.
08 giờ 30 sáng, trên kì đài ta đã phất phơ lá cờ Pháp. Tiếng gọi là cờ nhưng kì thật là sợi dây thắt lưng của một tên lính Phi châu kết với hai mảnh vải.
09 giờ thì quân Pháp vào Đại nội, quân ta rút ra khỏi hoàng thành.
Pécnô phải dùng đến 1 tiểu đoàn canh gác cung điện, để khỏi bị cướp phá. Tuy thế, các điện đài, dinh thự khác trong hoàng thành, suốt 48 tiếng đồng hồ bị quân Pháp ra tay vơ vét. Phần nhiều trong túi tên lính Pháp nào cũng có những nén bạc cướp được của kho ta. Một phóng viên của Hãng Ava (Havas) đã nói rằng chính ông đã mua được của các tên lính ấy 08 kilô bạc nén cả thảy. Ông lại còn cho biết suốt trong 5 ngày, 50 người chuyên việc sắp xếp các bảo vật có giá trị không thể tưởng được để đưa về Pháp.
Theo sự ước lượng của Pháp thì quân số của ta trong trận chiến gồm 20.000 người, tử trận 1.200 đến 1.500 người.
Về phía Pháp: 02 sĩ quan và 09 binh sĩ chết; 02 sĩ quan và 04 binh sĩ bị tử thương; 05 sĩ quan và 71 binh sĩ bị thương.
Pháp còn lấy của ta được số võ khí quan trọng: 812 khẩu đại bác, 16.000 súng tại võ khố, vô số súng trường, gươm giáo trong Nội.
Công cuộc sửa soạn chiến tranh, hai quan phụ chánh giấu kín, không để cho vua Hàm Nghi và Tam Cung biết [TXA. ing. & iđ.]. Tới khi thấy rõ sự thất bại, lúc ấy mới tâu với vua và Tam Cung hay, nhưng đổ lỗi cho người Pháp gây chiến trước. [Dẫu sao, sự thật cũng đúng như vậy: Pháp khích tướng (mưu toan bắt hai phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết; sau đó, bắn tin chỉ bắt Tôn Thất Thuyết để li gián) và khiêu khích Triều đình (bàn lễ triều yết, từ chối tặng phẩm, đòi chiến phí một cách ngược ngạo, trịch thượng) – TXA. ct.].
Hai quan phụ chánh phò vua và Tam Cung ra Quảng Trị [TXA. iđ.]. Khi xa giá ngang qua Kim Long, Tường ghé vào nhà thờ Kim Long nói chuyện với giám mục Cátpa rồi trở về hợp tác với Pháp. Có người chê trách Tường là gian hùng, có kẻ lại cho rằng: Việc Tường ở lại là có dụng ý để làm nội công cho Thuyết về sau. Cũng vì thế nên người Pháp không những không tin dùng lại còn lưu đày ra Côn Đảo, Tahiti và chết luôn ở đấy (30.7.1886) [TXA. iđ.].
Đến Quảng Trị, Tam Cung trở về Huế, riêng vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết và một số quan lại, tướng lãnh vẫn ở ngoài để tiếp tục kháng chiến.

Người biên soạn ghi chú thêm vào cuối bài viết của GS. Bửu Kế: “… Nhưng đến khi Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra khỏi kinh thành tổ chức công cuộc kháng chiến [TXA. iđ.] thì người pháp đã cùng với Triều đình Huế chọn Đồng Khánh đặt vào chiếc ngai vàng còn bỏ trống. […] … Chánh phủ Pháp đã thoả thuận với Tam Cung, lúc bấy giờ đang trú ẩn tại Khiêm cung (lăng vua Tự Đức) để truất phế vua Hàm Nghi và công bố cho thần dân trong nước đều biết. Sau đó, ngày 07.9.1885, Chánh Mông được chọn để thay thế vua Hàm Nghi với sự đồng ý của Tam Cung, tướng Đờ Cuốcxy, tổng trú sứ, Đờ Sămpô, ngoại giao đặc phái, và Nguyễn Văn Tường [trước khi Nguyễn Văn Tường bị lưu đày ngày 06.9.1885 – TXA. ct.]”.

(Mạn phép trích nguyên văn bài viết của GS. Bửu Kế ở cùng cuốn sách đang được trích dẫn [6], để chèn vào bài viết này, cũng của chính GS. Bửu Kế).




Lời người bình chú: Về hai chữ “gian hùng”, chúng tôi (TXA.) đã có nhiều luận cứ, luận chứng đề bác bỏ luận điệu đơm đặt về cái gọi là “gian hùng” này. Lẽ ra, hoàn toàn không nên tranh cãi về những luận điệu vu khống, bôi nhọ, bởi tranh cãi như thế là mắc mưu của chính bọn vu khống, bôi nhọ ấy. (Càng không nên bị mua chuộc mà truyền bá luận điệu đó!). Luận điệu đại loại như:

“Nước Nam có bốn gian hùng
Tường gian, Viêm láo, Khiêm khùng,
Thuyết ngu” [7]

thì tranh cãi làm gì! Làm thế nào lại không biết bọn vu khống ấy là ai! Chúng ta thừa biết bọn nào đã đơm đặt, rêu rao về những anh hùng bi tráng chống Pháp là “gian hùng gian”, “gian hùng láo”, “gian hùng khùng”, “gian hùng ngu”! Mưu trí đối phó với giặc Pháp, thứ giặc luôn luôn lật lọng trong mưu kế tằm ăn lá dâu (tàm thực), với bọn bành trướng Đại Hán, loại giặc thường xuyên chực chờ cơ hội để xâu xé nước ta, là “gian” ư?! Thách đố giặc Tàu, giặc Tây (mặc dù cuối đời Hoàng Tá Viêm cực lòng trong nỗi “trung quân” và “yên dân” có phần đáng trách) là “láo” ư?! Chống giặc bạch quỷ, tóc đuôi sam nhưng bản thân hơi tâm hỏa một chút, như vô kỉ luật, phạm thượng khi quân, là “khùng” ư?! Thi hành án những tên vua, tên quan thân Pháp, và tổ chức kháng chiến, cần vương, sát tả (loại tả đạo đích thực thực dân, tay sai) là “ngu” ư?! Xin hãy so sánh bốn nhân vật lịch sử kể trên với những tên Việt gian, cả những tên tả đạo đích thực trong giáo dân đương thời thuở bấy giờ (từng được đặt tên đường phố, tên trường học!!!) để thấy rõ thực chất của luận điệu đó! (Nếu có thể, với ý thức công bằng sử học, xin hãy làm một phép tính để so sánh tất cả các nhân vật lịch sử cùng thời với họ).
Đó là chưa kể đến hai câu tiếp theo của hai câu trên:

“Lại thêm hai thằng vũ phu
Đề Đức, đề Soạn giương mu chịu đòn!” *.

Toàn bộ bài viết của GS. Bửu Kế đã bác bỏ luận điệu “gian hùng” ấy: Một người như Nguyễn Văn Tường không thể có kết thúc là một kẻ “gian hùng”, xét về điều kiện khách quan (phía hoàng tộc, nhất là phía kẻ thù là Pháp, là các cố đạo thực dân) cũng như về ý định chủ quan của ông.
Một lần nữa, xin vui lòng xem lại bài viết của chúng tôi, “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885” và các trích đoạn từ tư liệu chuẩn cứ ĐNTL.CB. IV, V, VI., đặc biệt là các tư liệu gốc trong các kỉ ấy, ở cuốn sách này.
TXA.



GS. BỬU KẾ
trích nguyên văn và trọn vẹn bài viết
trong CHUYỆN TRIỀU NGUYỄN,
Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 78 – 101.


CƯỚC CHÚ bài TOÀ KHÂM SỨ PHÁP (MỘT TUỲ BÚT – KHẢO LUẬN VỀ LỊCH SỬ, VÀ VÀI NÉT BÌNH CHÚ):

* “… Trần Tiễn Thành, sinh ngày 14.12.1813 {…]. Trong lúc đọc di chiếu, ông đã không đọc, hay đọc rất nhỏ đoạn văn nói xấu vua Dục Đức. Do dó, ông bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết hạch tội. Đứng về phe đối lập nên Trần Tiễn Thành đã bị Tôn Thất Thuyết phái lính Phấn Nghĩa, dưới quyền điều khiển của Hường Hàng, Hường Chước và Hường Tế, đến tại nhà riêng ở Gia Hội để ám sát (đêm 30 tháng 10 năm Quý vị [Quý mùi, 1883])” (trích nguyên văn, kể cả chú thích này, của GS. Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn, bài “Chuyện về vua Đồng Khánh”, Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 52 ).

[1] Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 52.

[2] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (VNSL.), Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 566; Nxb. VHTT., bản 1999, tr. 594.

[3] GS. Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn (CTN.), bđd., sđd., tr. 53.

[4] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB). V [đệ ngũ kỉ], tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 150 – 151, tr. 176 – 178. Xin xem 2 trích đoạn ở phần phụ lục tư liệu chuẩn cứ.

[5] Bửu Kế, CTN., sđd., tr.178.

* Và, xin mở nhỏ một ngoặc đơn lạc đề ở đây: Là người thuộc thế hệ học trò của học trò GS. học giả Bửu Kế, chúng tôi rất thông cảm với những đại từ nhân xưng, các cụm từ miêu tả, thuật sự khá trung tính của ông trong bài viết, như GS. Bửu Kế đã gọi Râyna, Sămpô, Cuốcxy bằng “ông”; hoặc, khác với văn hoá Việt trong ứng xử văn hoá giữa người Việt với nhân vật yêu nước Việt, GS. gọi hai nhà yêu nước bằng hai cái tên cộc lốc: Tường, Thuyết; thậm chí thuật cuộc kháng chiến ở Bắc kì, cuộc Kinh Đô Quật Khởi của ta bằng động từ “gây hấn” chẳng hạn.
Năm 1978, bản thân chúng tôi cũng có lần phạm phải khi gọi Mác-bét (Macbeth), một nhân vật thường bị nhiều người thưởng ngoạn xem là phản diện của Sếch-xpia (W. Shakespeare), là “ông”. Tôi đã bị quy vào tội mất lập trường. Và vì thế, hồi đó, tôi đã suýt bị đánh rớt khi bảo vệ luận văn cử nhân sư phạm khoa ngữ văn, nếu không khiếu nại.
Thật ra, khác với trường hợp GS. Bửu Kế nói trên (cũng như trường hợp GS. Trần Văn Giàu, mất lập trường thực sự), việc tôi gọi Mác-bét bằng “ông” là hoàn toàn có cơ sở khoa học (văn học và đạo đức học).
Theo các học giả Liên Xô, căn cứ vào tác phẩm của Sếch-xpia và nhận định của nhà nghiên cứu văn học người Nga cực kì uy tín Bi-ê-lin-xki (Bêlinxki), thì Mác-bét “không thích hợp với cách xác định “tích cực” hay “phản diện””, và họ cũng gọi Mác-bét bằng “ông” (đại từ ngôi thứ ba trong tiếng Nga cũng như trong tiếng Anh [he], tiếng Pháp [il], nhưng được dịch theo văn cảnh).
(Xem: Tổ Bộ môn lịch sử sân khấu nước ngoài, Viện Nghệ thuật sân khấu A. V. Lu-na-sac-xki biên soạn, GS. X.X. Mô-cun-xki chủ biên, Lịch sử sân khấu thế giới, tập 2, Đức Nam, Hoàng Anh, Hải Dương dịch, Nxb. Văn Hoá, Hà Nội, 1977, tr. 136 – 139).
Cuối cùng, tôi đã khiếu nại thắng lợi trong việc bảo vệ luận văn tốt nghiệp, với điểm 7/10 (mức điểm trong khoa ngữ văn như thế, bấy giờ, đã được xem là cao). Tuy vậy, với sự góp ý trực tiếp của tiến sĩ Lê Văn Hảo, tôi đã thay đại từ “ông” bằng đại từ “y”, để thích đáng hơn trong sự bình giá Mác-bét, đồng thời để tránh những ngộ nhận đáng tiếc. Chắc hẳn cũng như Mác-bét, kẻ đã bức tử vua, cướp ngôi nhà Trần, đổi quốc hiệu thành Đại Ngu (*), để mất nước vào tay giặc Tàu, là Hồ Quý Ly, cũng chỉ xứng đáng bị gọi là “y” như thế. Riêng Trần Thủ Độ, kẻ gian hùng và đáng kinh tởm này còn là một anh hùng chống Nguyên – Mông thắng lợi, hẳn cần phải rạch ròi, có lúc phải gọi là “y”, có lúc nên gọi là “ông”, tuỳ khía cạnh trong hành trạng của Trần Thủ Độ.
Cũng xin khẳng định, Mác-bét phần nào gần với Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly và hoàn toàn khác xa với hai đại thần trung nghĩa Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết.
Mặt khác, mở rộng ra về khía cạnh đại từ nhân xưng thể hiện sắc thái biểu cảm và bình giá, ngoài văn cảnh cụ thể, trong tiếng Việt, cũng phải lưu ý đến tính địa phương (tiếng địa phương vùng bắc Trung bộ: mụ [chùa Linh Mụ, đèo Mụ Giạ], hắn [= anh ta, y, nó…]). Ngôn ngữ chỉ là sự quy ước của cộng đồng. TXA.

(*) Sử Trung Hoa: Kế vị vua Nghiêu, vua Thuấn lập ra nhà Ngu. Hồ Quý Ly biện minh việc cướp ngôi của mình bằng điển tích này. Vấn đề là tại sao lại lấy tên một triều đại bên Tàu để đặt quốc hiệu cho nước ta! Đó là chưa kể khía cạnh khác, trong tiếng Việt thông dụng, chỉ có một chữ ngu (đồng âm, khác chữ, khác nghĩa) với một nghĩa: ngu dốt, ngu ngơ!

[6] CTN., sđd., tr. 59.

[7] Phan Bội Châu, Những tác phẩm của Phan Bội Châu (NTPCPBC.), tập I, gồm Việt Nam vong quốc sử (VNVQS.) và Việt Nam quốc sử khảo (VNQSK.), lời phê của Hoàng Trọng Mậu (?!), Chương Thâu dịch, Hồ Song giới thiệu, Văn Tạo chủ biên… , Nxb. KHXH., 1982, tr. 305 – 306.

* Chủ chiến không phải là hiếu chiến, hoặc có dũng khí nhưng hành động thiếu suy xét, và càng không thể vô kỉ luật như thảo khấu, đến mức cướp bóc của cải ở nhà Trần Tiễn Thành một khi y đã chết như Hầu Chuyên đã phạm phải. Hầu Chuyên là người mà Vũ Văn Đức đã thả ra khỏi ngục. Chính Tôn Thất Thuyết và cả Nguyễn Văn Tường đều phải chấp hành tinh thần “luật pháp bất vị thân” của Bộ Hình, cho dù ở vụ việc này là “luật pháp bất vị đồng chí chủ chiến”. Ý thức “thượng tôn luật pháp” là “gian hùng” ư?
Cũng như phó đề đốc Trần Xuân Soạn, tham tri Ông Ích Khiêm và đề đốc Vũ Văn Đức vẫn là hai nhà yêu nước, cho dù họ lầm lỡ vi phạm luật pháp.
[Xem: ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 101, 169 – 171].
Xin vui lòng cảm thụ đại ý (ý nghĩa chung, toàn thể) của bốn câu vè trên. Theo bốn câu vè đầy ác ý đó, phải chăng bốn vị chủ chiến Nguyễn Văn Tường, Hoàng Tá Viêm, Ông Ích Khiêm, Tôn Thất Thuyết đều lãnh đạo và chủ động trong mọi kế hoạch đề kháng, kháng chiến chống Pháp, chống bọn tả đạo, nhưng chỉ hai vị đề đốc chủ chiến, yêu nước là Trần Xuân Soạn, Vũ Văn Đức phải chịu hi sinh để cứu tình thế, một khi lại phải hoà hoãn với Pháp để tiếp tục cầm cự?
[Chúng tôi không đề cập đến Hoàng Tá Viêm về sau, sau khi Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ!].

TXA.


Xem tiếp phần thứ III (phụ lục & ngoài sách)